Ngành may mặc Mỹ và nghịch lý thuế quan: Cây gậy đánh nhầm hướng
12/04/25
![]() |
Công nhân trong một nhà máy may mặc “cắt và may” tại khu may mặc của Manhattan. Nhà máy này là nhà thầu của thương hiệu thời trang Outlier. Ảnh: Karsten Moran/ The New York Times |
Tưởng như việc đánh thuế mạnh vào hàng dệt may nhập khẩu sẽ là đòn bẩy lý tưởng cho các nhà sản xuất nội địa Mỹ. Nhưng thực tế? Ngay cả những công ty may đồ tại Mỹ cũng đang khốn đốn.
Tại tầng 15 của một xưởng ở Midtown Manhattan, những người thợ lành nghề miệt mài cắt may cho Outlier – thương hiệu thời trang cao cấp sản xuất nội địa. Nhưng đống vải trong kho của họ đến từ... Ý, Thụy Sĩ, Thái Lan và New Zealand. Chất liệu linen, chẳng hạn, được dệt từ cây lanh chỉ trồng ở vùng duyên hải Bắc Âu – thứ khó có thể tái tạo tại Mỹ trong 10 năm tới.
Khi thuế “IEEPA-RECIPROCAL” được áp lên các nguyên liệu ấy, chi phí tăng vọt, Outlier phải tính đến tăng giá bán – điều không dễ với dòng sản phẩm vốn đã cao cấp. Kết quả? Hãng đóng băng tuyển dụng, hoãn đầu tư, và hoang mang vì chính sách thay đổi từng ngày. “Nếu biết thuế sẽ giữ nguyên, dù đau, chúng tôi còn dám lên kế hoạch. Nhưng giờ thì… rối loạn,” đồng sáng lập Abe Burmeister nói.
Thuế cao, nhưng không giúp được nhiều
Ngành may mặc Mỹ hiện chỉ sản xuất khoảng 2% quần áo người Mỹ tiêu dùng, một nửa trong số đó là hàng quân đội – bắt buộc phải “Made in USA”. Ngành này từng có gần 1 triệu lao động năm 1990, giờ còn 84.000. Cú đánh từ thuế quan mới – bên cạnh mức thuế cũ trung bình 12.6% – làm người tiêu dùng trả giá cao hơn, mà chưa chắc giúp việc làm quay lại.
Nhiều nhà sản xuất Mỹ tập trung vào phân khúc cao cấp. Ví dụ, Hamilton Shirts ở Houston bán áo sơ mi từ $245, dùng vải Ý, trả lương tốt, có bảo hiểm và 401(k) cho 41 nhân viên. “Chúng tôi không thể cạnh tranh với nhà máy trả lương vài USD một giờ,” David Hamilton nói. Tariff, vì thế, không tạo ra lợi thế thật sự nếu không gắn với chính sách tiền lương toàn khu vực.
Hỗ trợ lao động – chứ không phải chỉ áp thuế
Một số doanh nhân như Todd Shelton (New Jersey) đề xuất: thay vì chỉ thu thuế, nên dùng nguồn đó trợ cấp lương $8/giờ cho thợ may trong nước – tạo hiệu ứng thực tế hơn.
Karen Kane – thương hiệu nữ trang tại L.A. – cũng chia sẻ khó khăn: dễ may thì còn xoay được, nhưng hàng phức tạp như đính đá, thêu tay thì không xưởng nào ở Mỹ đáp ứng nổi. “Muốn sản xuất trong nước, phải làm cho nó khả thi về kinh tế,” giám đốc Michael Kane nói.
Dù một số doanh nghiệp như American Giant sản xuất toàn bộ tại Mỹ và được Walmart hậu thuẫn (cho phép họ bán áo thun $12.98), CEO Bayard Winthrop vẫn lo lắng: “Thuế quan kiểu này gây ra bất ổn cho thị trường, khiến đầu tư và chuỗi cung ứng tê liệt.”
Rối loạn, thiếu nhất quán – rủi ro cho doanh nhân
Chuyện gì sẽ xảy ra nếu hôm nay thuế tăng, mai lại tạm hoãn? Đó là tình huống của Joseph Ferrara – vừa chi $25 triệu xây nhà máy mới ở Queens, hy vọng đón làn sóng dịch chuyển. Nhưng các khách hàng hỏi: “Thuế này có thật không? Tạm thời à?” Nếu thiếu tính nhất quán, mọi chiến lược chuỗi cung ứng đều trở nên rủi ro.
Trong khi đó, Joe Van Deman – cựu quản lý sản phẩm tại Google, đang điều hành ba công ty may tại Mỹ – cũng không mấy lạc quan. “Nếu giá nguyên liệu leo thang, người tiêu dùng sẽ thắt chặt chi tiêu – họ sẽ giữ lại quần áo cũ thay vì mua mới,” ông nói.
Thuế chưa đủ, cần chiến lược thông minh hơn
Dù nhiều hiệp hội ngành nghề bất đồng về hiệu quả của thuế, họ đều đồng thuận rằng chính phủ nên tăng mua sắm nội địa, đặc biệt ngoài lĩnh vực quốc phòng – nơi hiện vẫn chủ yếu dùng lao động từ... tù nhân.
Steve Lamar – CEO Hiệp hội Dệt may & Giày dép Mỹ – nói thẳng: “Chúng ta có công cụ tốt hơn nhiều để thúc đẩy sản xuất. Nhưng nếu tổng thống chỉ có cái búa, mọi thứ đều bị xem như cái đinh.”
shared via nytimes,