Giỏ hàng

Bản đọc thử Vũ khí kinh tế

photo courtesy: Christopher Soelistyo
 

PHẦN II

TÍNH HỢP PHÁP CỦA VŨ KHÍ KINH TẾ

 

CHƯƠNG 4

 

Hiệu chỉnh vũ khí kinh tế

(1921-1924)

 

Vào tháng 7/1920, cơ quan quan trọng nhất của Hội quốc liên là Hội đồng đã họp tại thành phố San Sebastian nằm ở ven biển phía bắc Tây Ban Nha. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Anh Arthur Balfour nhấn mạnh những gì ông cho rằng tổ chức cần nhất và tuyên bố với các nhà báo tham gia cuộc họp: "Chúng ta phải có một cuộc phong tỏa kinh tế". Balfour đã tiên đoán: “Không có quốc gia nào sẽ tự phá hủy mình trong những thời điểm văn minh như này bằng cách mới gọi một hình phạt như vậy. Và không có khả năng nó sẽ được sử dụng thường xuyên, vì không có khả năng Hội quốc liên bị thách thức thường xuyên", Quan điểm của Balfour về cách mà các biện pháp trừng phạt kinh tế của Hội quốc liên sẽ hoạt động -trước hết là như một biện pháp ngăn chặn - là quan điểm chiếm ưu thế trong số các nhà quốc tế chủ nghĩa sau Chiến tranh thể giới thứ nhất. Khi có nhiều quốc gia gia nhập Hội quốc liên, hiệu ứng ngân chặn này sẽ tăng lên. Pháp luôn hình dung ra một tổ chức "hướng tới sự phổ biến" (tendant à l'universel)". Tuy nhiên, điều này vẫn chỉ là một khát vọng chứ không phải hiện thực.

 

Với tư cách là những quốc gia từng tham chiến và có sự biến đổ cách mạng, cả Đức và Nga Xôviết không phải là thành viên của Hội quốc liên. Vấn đề khó khăn hơn nữa là vào tháng 3/1920 Hòa ước Versailles và cơ sở pháp lý của tổ chức mới tại Geneva đã bị Thượng viên Hoa Kỳ bác bỏ. Điều này có nghĩa là Hồi cơ quan điều hành của Hôi quốc liên, sẽ không có nấm đồng, thành viên mà chỉ có bốn thành viên thường trực gồm Anh Pháp, Italy và Nhật Bản và với bốn thành viên không thường trực được bầu cử bởi Đại hội - cơ quan lập pháp của Hội quốc liên, trong giai đoạn ba năm một lần.

 

Thủ tục theo Điều 16 của Hội đồng, chống lại những quốc gia xâm lược không phải là công cụ cưỡng chế đa phương duy nhất mà ba quốc gia lớn của châu Âu là Anh, Pháp và Italy có thể sử dụng. Theo Hòa ước Versailles, các quốc gia này, cũng như một thành viên không thường trực của Hội đồng là Bỉ, được nhận riêng khoản bồi thường của Đức. Nếu Đức bị kết tội không tuân thủ, các biện pháp thực thi cứng rắn có tính chất kinh tế hoặc quân sự có thể được sử dụng. Do đó, các biện pháp trừng phạt khi xuất hiện trong trật tự hậu Chiến tranh thế giới thứ nhất được đánh dấu bằng một sự căng thẳng được cấu thành. Trong Hội quốc liên, các biện pháp trừng phạt được cho là giúp duy trì hòa bình thế giới. Nhưng trên thực tế, việc thực thi chúng sẽ nằm trong tay của những cường quốc châu Âu đã sử dụng các biện pháp trừng phạt riêng biệt của Hòa ước

 

Versailles để theo đuổi lợi ích riêng của họ trong vẫn để bồi thường. Bằng cách sử dụng các phương pháp tương tự trong cả hai lĩnh vực, Anh, Pháp và Italy đã tuyên bố chủ nghĩa phổ quát, đồng thời thực hiện quyền lực chính trị của mình.

 

Cuộc tranh luận về vũ khí kinh tế vào đầu những năm 1920 đấy những sự mơ hồ cơ bản: liệu các biện pháp trừng phạt có phải là một công cụ của cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc hay là một phương tiên để vượt lên trên nó? Vào tháng 8/1921, Hội quốc liên triệu tập một cơ quan chuyên gia đặc biệt, IBC, để xem xét ý nghĩa của Điều 16 và điều chỉnh chức năng của nó một cách chính xác hơn. Vết mực trên các quyết định của IBC chưa khô khi cuộc khủng hoảng đầu tiên nảy sinh, trong đó chức năng ngăn chặn của điều khoản này được đặt vào thủ thách. Một lời đe dọa trừng phạt đúng lúc của Hội quốc liên vào tháng 11 đã buộc Nam Tư phải rút lui dẫn dân vùng bắc Albania. Các biện pháp trừng phạt đã ngăn chặn những gì có thể đã leo thang thành cuộc chiến Balkan thứ tư trong vòng một thập kỷ. Sự đoàn kết thành công này tạo ra tương phản sắc nét so với việc sử dụng biện pháp trừng phạt để thực thi yêu sách bồi thường theo Hòa ước Versailles đôi với Đức. Bắt đầu từ đầu năm 1921, các Đồng minh đã tàn phá các cảng biển và các trạm hải quan của Đức, quá trình này gia tăng thành sự chiếm đóng khu vực công nghiệp Ruhr. Sự mâu thuẫn giữa các Đồng minh do tác động cuộc khủng hoảng Ruhr, gây ra những vấn đề khác cho chức năng ngăn chặn của các biện pháp trừng phạt của Hội quốc liên khi chính quyền phát xít Italy do Benito Mussolini cai trị, tiến hành một cuộc hành quân trừng phạt chống lại hòn đảo Corfu của Hy Lạp vào năm 1923. Có vẻ như sự thống trị của đế quốc, không phải nguyên tắc quốc gia có chủ quyền bình đẳng, là yếu tố có ảnh hưởng mạnh hơn đồi với áp lực kinh tế trong thời gian hòa bình.

 

Ủy ban phong tỏa quốc tế

 

Trong Hội nghị Hòa bình, Cecil và Bourgeois đã làm dịu sự lo ngại của các quốc gia nhỏ về sự thống trị của các cường quốc bằng việc hứa hẹn rằng các nghĩa vụ cụ thể của các thành viên trong Hiến chương sẽ được làm rõ trong các cuộc họp đầu tiên của Hội quốc liên tại Geneva vào mùa thu năm 1920³. Vì vậy, nhiều quốc gia đã chào đón quyết định của Thư ký chung, nhà ngoại giao Eric Drummond của Bộ Ngoại giao Anh, đây vũ khí kinh tế lên hàng đầu chương trình của Hội quốc liên. Vào tháng 12, Drummond viết rằng một nhóm chuyên gia đặc biệt sẽ vẽ kế hoạch chính xác “giúp Hội quốc liên sử dụng vũ khí phong tỏa kinh tế và tài chính quốc tế, Ủy ban phong tỏa này sẽ cân bằng giữa các cường quốc và các quốc gia nhỏ, mô phỏng cấu trúc của Hội đồng. Bộ Thư ký của Drummond đã yêu cầu Cuba, Na Uy, Tây Ban Nha và Thụy Sĩ tham gia cơ quan chuyên gia này. Vì các thành viên không thường trực của Hội đồng trong giai đoạn 1920 - 1923 là Bỉ, Brazil, Trung Quốc và Hy Lạp, điều này có nghĩa là các quốc gia nhỏ trong Hội quốc liên hiện đã có ba đại diện châu Âu và một đại diện Mỹ Latinh để bảo vệ quyền lợi của họ.

 

Trong quá trình chuẩn bị cho việc quốc tế hóa vũ khí kinh tế, Paris và London đã sắp xếp lại khả năng của họ và thay đổi triển vọng chiến lược. Đối mặt với khoản thâm hụt ngân sách lớn và không có sự giảm nợ trong suốt thời kỳ chiến tranh, việc cắt giảm chỉ tiêu và giải ngũ đã buộc Bộ Phong tỏa của Anh phải bị giải tán vào tháng 7/1919. Khi bị áp lực về hiệu quả của chính sách phong tỏa trong Hạ viện, Cecil thú nhận: “Tôi tin rằng chúng ta đã thành công, nhưng hệ thống phải được thiết lập rất phức tạp và tôi chắc chắn rằng hiện tại không thể thiết lập được một cách hữu ích”. Ngay cả khi Anh muốn thiết lập một phong tỏa toàn diện theo mô hình chiến tranh, thì hiện tại họ thiếu hệ thống quản lý dân sự và cơ sở thông tin tình báo cần thiết để làm điều đó.

 

Chủ nghĩa tự do thường có một sự ghét bỏ mạnh mẽ đối với lục quân, nghĩa vụ quân sự, tướng lĩnh và bất cứ thứ gì liên quan đến quân sự. Một quân đội quá mạnh không chỉ là gánh nặng đất đỏ đối với một nền kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ. Nó cũng sẽ kích thích chủ nghĩa dân tộc và hành vi thù địch, tất cả đều xung khắc với các giá trị về lòng cởi mở, lý thuyết và hòa bình. Các nhà chủ nghĩa tự do rất yêu mến Hải quân Hoàng gia, mà họ coi như một công cụ phòng thủ tuyệt đối để bảo vệ đế quốc, các tuyến vận chuyển và thông tin của nó. David Edgerton đã lập luận rằng chủ nghĩa quốc tế tự do ở Anh giữa hai cuộc chiến luôn đi đôi với một “chủ nghĩa quân phiệt tự do” rõ ràng, Vũ khí kinh tế đã đóng vai trò trong cả hai, xuất hiện dưới dạng "sự trừng phạt trong trường hợp trước và "phong tỏa" trong trường hợp sau. Phong tỏa hấp dẫn vì chi phí của nó đối với Anh rất thấp, cũng như sự nhìn thấy của công chúng Anh. Như Arnold-Forster đã đặt câu hỏi: "Phong tỏa theo hình thức hiện tại đặt ra một vấn đề mới đối với triết gia yêu hòa bình... Khi kẻ xâm lược tiếp tục dâm vũ khí vào những người chống đối một cách im lặng.....

 

thậm chí theo thời gian anh ta cũng sẽ thấy rằng quá trình đó không dễ chịu. Nhưng trong trường hợp phong tỏa, không có sự tiếp xúc trực tiếp với kết quả để hạn chế sự chết chóc Ngòi bút của Lord Curzon sẽ thay thế vũ khí của kẻ xâm lược và không có tiếng kêu đau đớn khó chịu nào nghe thấy ở phố Downing. Chính sách phong tỏa thật tiện lợi". Khả năng gây ra đau khổ khủng khiếp cho dân thường từ xa bằng cách của các quan chức là điều đạo đức ghê tởm với Arnold-Forster. Tuy nhiên, với hầu hết những người theo chủ nghĩa quốc tế tự do người Anh như ông ta, việc thiếu một quân đội của Hội quốc liên đã biến vũ khí kinh tế trở thành công cụ chính của tổ chức theo mặc định. Lập luận của Arnold-Forster cho chính sách phong tỏa là một lập luận quốc tế dân chủ. Là kiến trúc sư của hệ thống phong tỏa thống kê “khoa học”, ông thừa nhận đó là một biện pháp khủng khiếp có thể giết hàng trăm nghìn người. Nhưng nếu được quốc tế hóa dưới sự kiểm soát của Hội quốc liên, sức mạnh tiềm năng của nó có thể dù lớn để đảm bảo hòa bình.

 

Pháp bắt đầu suy nghĩ về cách thức thực hiện quá trình quốc tế hóa từ đầu năm 1921, để chuẩn bị cho cuộc họp IBC vào mùa thu cùng năm. Việc đánh giá của Bộ Ngoại giao được tiến hành bởi phòng quan hệ thương mại do Seydoux đứng đầu, một bộ phận đã phát triển từ cơ cấu phong tỏa trong thời kỳ chiến tranh. Seydoux, một viên chức khiêm tốn hơn Cecil, người có xu hướng đề cao tầm nhìn và diễn thuyết táo bạo. Trong khi khả năng hành chính của Anh để thực hiện phong tỏa đang thu hẹp, ông đã thuyết phục cấp trên rằng an ninh quốc gia của Pháp phụ thuộc vào sự chuẩn bị sẵn sàng vĩnh viễn cho cuộc chiến kinh tế. Vào tháng 02/1921, một ủy ban phụ trách nghiên cứu về phong tỏa đã được thành lập. Dưới sự chủ trì của đại sứ Pháp tại Hội quốc liên, Jean Goût - một cựu quản lý phong tỏa khác - ủy ban đã tập hợp đại diện các bộ ngoại giao, thương mại, tài chính, nông nghiệp và quốc phòng; hải quân và quân đội. Ủy ban làm việc với giả định rằng “tín ngưỡng về cuộc chiến ngắn" đã khiến Pháp không chuẩn bị sẵn sàng vào năm 1914 và trì hoãn khả năng gây áp lực kinh tế lên Đức và Áo - Hung. Theo quan điểm của ủy ban, điều cần thiết là “một tổ chức kinh tế sẽ có một đội ngũ nhân viên ngay từ khi tổ chức này được triển khai".

 

Tiểu ban đã lập danh sách các nguyên liệu công nghiệp và thực phẩm cần được cất giữ và thảo luận về cách sử dụng chính sách phong tỏa trong thời bình. Có khả năng rằng một bên xâm lược sẽ đáp trả chế độ trừng phạt bằng cách xâm lược các quốc gia nhỏ xung quanh nó". Tất nhiên, đây chính là nỗi sợ hãi của các quốc gia như Đan Mạch, Hà Lan và Thụy Sĩ khí sử dụng vũ khí kinh tế của Hội quốc liên chống lại Đức. Các nhà hoạch định quân sự người Pháp thúc đẩy các quản lý dân sự xem xét phong tỏa ngăn chặn khi có dấu hiệu một quốc gia sẽ tiến hành cuộc xâm lược 18. Ý tưởng áp lực kinh tế như chiến lược đánh tiên phong, một "Kế hoạch Schlieffen kinh tế". vẫn còn hấp dẫn. Tuy nhiên, tính khả thi của phương pháp này dường như đang bị nghi ngờ ngày càng nhiều. Trong những năm giữa hai cuộc chiến, ngày càng có nhiều kỹ sư dân sự và quân sự nhận ra rằng, khi được áp dụng thực tế, sức mạnh của áp lực kinh tế nằm ở sự kiệt quệ qua sự tiêu hao, chứ không phải sự tê liệt thông qua hành động nhanh chóng. Cuộc chiến kinh tế từ năm 1914 đến năm 1918 không đáp ứng hy vọng rằng ngăn chặn vật chất sẽ gây ra sự sụp đổ xã hội nhanh chóng: chắc chắn cả chính sách phong tỏa của Đồng minh và chiến tranh ngầm của Đức cũng không có tác động như vậy trong khoảng thời gian ngắn có thể khai thác chính trị. Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa quốc tế cố gắng tăng cường hiệu quả của sự đe dọa trừng phạt tiếp tục nhấn mạnh tác động nhanh chóng của chúng, dẫn đến sự đánh giá quá cao về áp lực vật chất trong các chiến lược gia và nhà sử học 14.

 

Dù sao đi nữa, các quan chức dân sự trong ủy ban liên bộ của Goût biết rằng một chính sách phong tỏa phòng ngự sẽ không khả thi về mặt ngoại giao và pháp lý. Họ phản đối phiên bản chính sách có tác động nhanh chóng của quân sự như một mối đe dọa đối với hòa bình và sự ổn định chính trị đã đạt được ở châu Âu. Phong tỏa ngăn ngừa không bao giờ được đề xuất ở Geneva. Tuy nhiên, Seydoux và Goût nghĩ rằng cơ chế trừng phạt kinh tế nên được tự động, toàn diện và được hỗ trợ bởi càng nhiều quốc gia thành viên càng tốt. Những gì họ đang cố gắng bảo vệ là một mặt trận trung lập giữa những kẻ cứng rắn trong quân đội ở nước họ và xu hướng ngày càng tránh xa châu lục của Bộ Ngoại giao Anh

 

Hội đồng IBC họp tại Geneva vào cuối tháng 8/1921. Ủy ban này bao gồm tám thành viên, bốn thành viên đến từ các cường quốc (Anh, Pháp, Italy và Nhật Bản) và bốn thành viên đến từ các nước trung lập trong thời kỳ chiến tranh: Cuba, Na Uy, Tây Ban Nha và Thụy Sĩ. Hầu hết đều là chuyên gia về kinh tế quốc tế và luật pháp. Cuba đã gửi đai sử của mình tới Đức, Aristides de Aguero y Bethancourt, một đồng đội cách mạng cũ của José Martí và Máximo Gómez, ông cũng là một trong những người phát ngôn chính của Cuba trong công việc quốc tế". Đại diện của Tây Ban Nha, Pablo Garnica Echevarría, một người từng làm ngân hàng và thành viên Đảng Tự do, có quan điểm kinh tế hoàn toàn tự do; giống như Aguero, ông đã bảo vệ quyền trung lập trước yêu sách phong tỏa mạnh mẽ từ Hội quốc liên". Hai thành viên trung lập còn lại, Na Uy và Thụy Sĩ, đã gửi các chuyên gia về vấn đề hàng hải và pháp luật quốc tế: Christian Sparre, một cựu đô đốc Hải quân Hoàng gia Na Uy và thành viên Đảng Venstre tự do, người mạnh mẽ bảo vệ quyền tự do trên biển; và Max Huber, một giáo sư luật quốc tế tại Đại học Zurich và người phụ trách pháp lý chính của Bộ Ngoại giao Thụy Sĩ. Vì IBC được Paris coi trọng, chính phủ Pháp đã gửi Goût đến làm người đại diện. Ông là một người có kinh nghiệm trong nội bộ Bộ Ngoại giao Pháp, đã từng là trưởng phòng châu Á của Bộ Ngoại giao và phó trưởng phòng phong tỏa trong thời chiến, đã đóng góp vào việc thiết kế các đề xuất của Pháp về Hội quốc liên". Vị trí của Anh được luật sự xuất sắc ngài William Finlay đảm nhận. Ông đã từng là cố vấn pháp lý cho các ủy ban phong tỏa khác nhau trong thời chiến và là thủ tướng của Lloyd George từ năm 1916 đến năm 191920. Hai thành viên cố định khác của IBC là cựu Bộ trưởng Bộ Tài chính Italia Carlo Schanzer và tiến sĩ Minuro Oka, một viên chức và nhà báo đã quản lý bộ phận thương mại và công nghiệp tại Bộ Nông nghiệp và Thương mại của Nhật Bản và là chủ tịch Hiệp hội Liên minh quốc gia Nhật Bản.

 

Trong suốt chín phiên họp kéo dài sáu ngày, IBC tập trung vào ba câu hỏi quan trọng. Thứ nhất, khi nào áp dụng biện pháp trừng phạt kinh tế? Thứ hai, ai sẽ quyết định áp đặt biện pháp trừng phạt? Và cuối cùng, các quốc gia thành viên của Hội quốc liên sẽ thực hiện biện pháp như thế nào? Những câu hỏi này mang tính chính trị sâu sắc và IBC đã xem xét đánh giá như vậy. Rõ ràng rằng ý nghĩa hợp lý nhất của Điều 16 đồng thời vừa là hẹp, vừa là mở. Sự hẹp hơn được áp dụng vào các hành động sẽ kích hoạt chúng. IBC đồng ý rằng biện pháp trừng phạt chỉ nên là một phản ứng trước sự xâm lược được định nghĩa trong Điều 10 của Hiến chương: "hành động vũ trang" nhằm vào "toàn vẹn lãnh thổ" hoặc "độc lập chính trị" của một quốc gia thành viên. Định nghĩa này loại trừ các cuộc nổi loạn nội bộ, đảo chính, cuộc nội chiến và các vấn đề thiểu số là những xung đột không đủ cơ sở để sử dụng biện pháp trừng phạt. Chỉ khi vi phạm hòa bình giữa các quốc gia có chủ quyền mới là lý do để sử dụng biện pháp trừng phạt. Đồng thời, các biện pháp trừng phạt được định nghĩa là linh hoạt bởi IBC. IBC cho rằng, các thành viên của Hội quốc liên có quyền tự quyết định xem việc thực hiện các hành động chiến tranh đáp trả này có đưa họ vào tình trạng chiến tranh với kẻ xâm lược hay không. Sự phân biệt này đã làm hài lòng cả Anh và Pháp. Nó cho phép Paris áp dụng biện pháp trừng phạt kinh tế như một biện pháp tuần tra trong thời hòa bình. Đồng thời, London có thể sử dụng sức mạnh hải quân đáng kể của mình như một biện pháp ngăn chặn mà không cần phục hồi cơ cấu phong tỏa trong thời chiến. Quyền tự quyết định của từng chính phủ về việc biện pháp trừng phạt tạo ra một trạng thái chiến tranh cũng có lợi cho các quốc gia trung lập, có thể áp đặt các biện pháp nhẹ mà không bỏ tính trung lập của mình. IBC đã loại bỏ một số lo ngại về ý nghĩa của áp lực trong thời chiến và trong hòa bình bằng cách khẳng định rằng bất luận cuộc chiến tranh nào thì Điều 16 vẫn là “về bản chất là kinh tế 24. Về câu hỏi ai sẽ quyết định về biện pháp trừng phạt, quyền lực tuyệt đối được giao cho

 

Hội đồng Hội quốc liên. gribl Ngoài những quy định và thủ tục hình thức, câu hỏi sâu xa mà IBC dang đặt ra là cách điều chỉnh hiệu quả của vũ khí kinh tế. Nếu có thể giải quyết một cuộc khủng hoảng quốc tế mà không cần thực hiện biện pháp ép buộc là điều tốt hơn cả.

 

Nhưng chính xác biện pháp trừng phạt của Hội quốc liên nên mạnh và nhanh đến mức nào để đạt hiệu quả đẩy lùi tối ưu Như Finlay và cấp trên của ông tại Bộ Ngoại giao đã nhận thức, sự đẩy lùi tối ưu không nhất thiết là đẩy lùi tối đa. Nếu biện pháp trừng phạt gây tổn thất ngay lập tức quá lớn, chúng có thể quá mạnh đến mức không thể sử dụng dễ dàng, có thể nảy sinh nghi ngờ liệu vũ khí kinh tế sẽ được sử dụng hay không. Ngược lại, nếu biện pháp trừng phạt được điều chỉnh quá nhẹ nhàng, chúng có thể không hoạt động đủ nhanh hoặc đặt dấu hỏi về sự sẵn lòng của Hội đồng.

 

Những vấn đề và sự đảo lộn gây ra do cuộc khủng hoảng và biện pháp trừng phạt trong thời chiến đã ảnh hưởng sâu sắc đến quan điểm của nhiều quốc gia trung lập. Dựa trên yêu cầu của các đại biểu trung lập, IBC quy định rằng việc cấm vận thực phẩm chỉ được sử dụng khi không còn sự lựa chọn cuối cùng trước chiến tranh. Tuy nhiên, đây không phải là cách duy nhất mà công chúng định hình về vũ khí kinh tế. IBC coi “công khai" là mấu chốt để đảm bảo tác dụng ngăn chặn của biện pháp trừng phạt. Đó là, biện pháp trừng phạt chỉ có tác dụng nếu quyết định trừng phạt của Hội đồng được công bố công khai cho toàn thế giới biết. IBC kỳ vọng rằng khi nhận được tin tức về biện pháp trừng phạt sắp xảy ra, “ý kiến công chúng trong quốc gia bị xem là vi phạm Hiến chương cũng sẽ được khơi dậy. và do đó, một sự thay đổi chính trị mới có thể được thực hiện, từ đó tạo điều kiện cho trở lại tình hình bình thường. Kết quả là cuộc xung đột sẽ kết thúc mà không cần thiết phải áp dụng biện pháp trừng phạt.

 

Lập luận này về tác động của biện pháp trừng phạt đối với ý kiến công chúng là một lập luận mạnh mẽ, đồng hành với sự hoạt động của nền dân chủ với mục tiêu bảo vệ hòa bình. Tuy nhiên, giả định cốt lõi của lập luận này là “ý kiến công chúng”, nếu có thể tìm thấy sự diễn đạt một cách mạch lạc và kịp thời trong một quốc gia xâm lược, sẽ bị ảnh hưởng chủ yếu bởi các yếu tố kinh tế. Triển vọng bị thiệt hại vật chất thay vì sự xấu hổ đạo đức sẽ thúc đẩy công chúng kiềm chế hành vi quân phiệt của chính phủ. Việc xác định ý kiến công chúng với sự ưu tiên của động cơ thương mại chắc chắn hấp dẫn đối với các quan chức tư sản trong IBC. Tuy nhiên, niềm tin rằng nỗi sợ hãi của dân chúng về sự suy giảm mức sống sẽ duy trì hòa bình là đáng chú ý. Liệu “thương mại dịu dàng" trong giao dịch kinh tế luôn luôn chiến thắng trước lòng tự trọng, nguyên nhân khuyến khích chủ nghĩa dân tộc và hành vi xâm lược hay không? Với tình trạng không tin tưởng sâu sắc và phân chia còn lại sau cuộc chiến, nhiều nhà bình luận đã thể hiện sự hoài nghi. Ngay cả Norman Angell, người ủng hộ quan điểm về sự dịu dàng của thương mại nổi tiếng nhất trong thế kỷ XX, cũng kết luận trong cùng năm rằng: “Những gì chúng ta đã thấy trong lịch sử gần đây không phải là sự lựa chọn chủ động của mục tiêu với ý thức về chi phí đạo đức và vật chất. Chúng ta thấy... toàn lục địa trở thành một cuộc tận sát, trả đũa, thoả mãn những đam mê tự phá hoại. Không có lời buộc tội lý lẽ nào có thể nghiêm trọng hơn với lý do con người"...

 
đặt mua sách: tại đây

Bình luận

This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
Bình luận của bạn sẽ được duyệt trước khi đăng lên