Bản đọc thử Sự giàu và nghèo của các dân tộc
19/10/25
21
THIÊN TRIỀU: NGƯNG TRỆ VÀ THỤT LÙI
Giờ đây nước Anh đang tỏ lòng kính trọng
Công lao và đức hạnh của tổ tiên trẫm hẳn đã tới bờ biển xa xôi của họ
Dù cống phẩm tầm thường, lòng trẫm vẫn chấp nhận chân thành
Của hiếm và sự khoe khoang khéo léo về các thiết bị của họ, trẫm chẳng trân quý
Dù những gì họ mang tới ít ỏi, nhưng
Trẫm thân ái hào phóng với những người phương xa,
Khi họ muốn chúc thọ trẫm.
~ Thơ của Hoàng đế Càn Long nhân dịp công sử Macartney yết kiến (1793)
Người châu Âu thế kỷ 16 dong buồm qua Ấn Độ Dương để tìm đường tới Trung Hoa đã hết sức ngạc nhiên vì thói kẻ cả xa lạ. Thiên triều – cái tên nói lên tất cả – tự coi mình là thực thể chính trị hàng đầu thế giới: đứng đầu về quy mô và dân số, đứng đầu về hàng ngàn năm lịch sử và kinh nghiệm, đỉnh cao rực rỡ về thành tựu văn hóa và ý thức vượt trội về đạo đức, tỉnh thần, và trí tuệ.
Người Trung Hoa nghĩ mình là trung tâm vũ trụ. Xung quanh họ, các dân tộc thấp kém hơn bị hấp dẫn bởi ánh sáng rực rỡ và vươn tới họ để có ánh sáng, quy phục và triều cống để đạt được vị thế. Hoàng đế Trung Hoa là "Thiên tử, đại diện thần thánh, duy nhất của sức mạnh thiên giới. Số ít người diện kiến ông ta thể hiện sự kinh sợ bằng cách khẩu đầu – quỳ và dập đầu chín lần xuống đất. Những người khác khẩu đấu trước bất kỳ vật gì từ ông ta – một chiếu thư, một hán tự viết tay duy nhất. Tờ giấy ông ta viết, quần áo ông ta mặc, mọi thứ ông ta chạm vào đều dự phần trong cái tỉnh hoa thiêng liêng của ông ta.
Những người đại diện cho hoàng đế và cai quản cho ông ta được lựa chọn qua các kỳ thi tuyển chọn về Tử thư và Ngũ kinh của Nho giáo. Các vị quan này thể hiện nền văn hóa cao quý của Trung Hoa – uy tin, toàn vẹn và hùng vĩ. Lòng tự trọng và kiêu hãnh của họ có nhiều cơ hội để thể hiện và thực thi với cấp dưới, và chỉ duy nhất sánh được với sự “phục tùng đáng kinh ngạc" và tự hạ mình của họ trước cấp trên. Không gì thể hiện tốt sự cạnh tranh của họ về địa vị hèn mọn như ở buổi chấu sáng, khi hàng trăm triều thần tập trung ngoài trời từ nửa đêm và đứng chầu chực, trong mưa hay lạnh hay quang mây, đợi hoàng để đến và cúi rạp mình hành lễ. Họ không hề lãng phí thời gian; thời gian của họ là của hoàng đế. Không viên quan nào được tới muộn, và đúng giờ là chưa đủ: đến sớm là bằng chứng của tâm huyết.
Thói tự cao tự đại về văn hóa như vậy kết hợp với sự chuyên chế từ trên xuống đấy thiển cận đã khiến Trung Hoa trở thành một nước miễn cưỡng cải cách và là một học trò tổi. Sự cải cách nếu có sẽ phải thách thức tỉnh chính thống đấy dễ chịu và bao hàm trong đó sự bắt tuân; điều tương tự đối với kiến thức và ý tưởng du nhập. Mà thực ra, có gì để học cơ chứ? Sự bác bỏ này của người nước ngoài càng làm nỗi lo lắng tăng lên đối với chính sự kiêu ngạo vốn biện minh cho nó. Đô là nghịch lý của phức cảm vượt trội: thực chất, nó không an toàn và mong manh. Những người mang trong mình phức cảm này cần nó và sợ nhất là sự mâu thuẫn. (Người Pháp ngày nay tự kiêu về sự ưu việt của tiếng Pháp tới mức họ run sợ trước khả năng thành công của một từ mượn, đặc biệt nếu đó là một từ tiếng Anh.) Vì vậy, triều Minh ở Trung Quốc – đoan chắc về uy quyền của mình – đã run sợ trước thách thức của công nghệ phương Tây, vốn ở đó để học hỏi.
Trớ trêu thay, các vị khách Bồ Đào Nha và các nhà truyền giáo Công giáo đầu tiên này đã dùng các kỳ quan của công nghệ phương Tây để tìm cách tiến vào Trung Hoa. Đồng hồ cơ học là chìa khóa mở tung những cảnh cống. Chúng ta đã thấy đây là một phát minh lớn của châu Âu vào cuối thế kỷ 13, không chỉ quan trọng đối với sự đóng góp của nó cho kỷ luật và năng suất, mà còn đối với tỉnh dễ cải tiến và vai trò đi đầu của nó trong thiết bị đo đạc và kỹ thuật cơ khí. So với nó, đồng hồ nước chỉ là vật tầm thường.
Đối với quan chức Trung Hoa thế kỷ 16, đồng hồ cơ học là một cỗ máy kỳ lạ không chỉ cho biết thời gian mà còn đầy thú vị và mang tính giải trí. Một số đồng hồ phát nhạc; những cái khác là cỗ máy tự động, có các hình tượng nhỏ chuyển động nhịp nhàng khi đến giờ. Khi đó, đồng hồ là thứ mà hoàng đế muốn xem và thưởng thức, là thứ phải được dâng lên ông ta nếu muốn giành được ân huệ của ông ta, là thứ mà một triều thần nhiệt tâm phải dâng lên ông ta trước khi kẻ khác kịp làm. Không dễ. Thiết bị kỳ diệu này phải có người đi kèm. Bản năng và thông lệ của người Trung Hoa ra lệnh phải giữ khoảng cách với người nước ngoài, giới hạn ở một số điểm ngoại vi như Macao và hiếm khi được phép tiến vào trung tâm. Tuy nhiên, chiếc đồng hồ thế kỷ 16 cần thợ đồng hồ đi kèm.
Khôi cần phải nói, người Trung Hoa rất yêu thích đồng hồ treo tường và đồng hồ đeo tay. Nhưng họ không vui với những người châu Âu đi kèm. Văn để ở đây là ý thức của người Trung Hoa về tính toàn vẹn của nền văn hóa, mối liên hệ giữa sự vật, con người, và thần thánh.
Các linh mục Công giáo mang mấy cỗ máy này đến đây là những người bán một mặt hàng đặc biệt. Họ tìm cách cải đạo người Trung Hoa theo Chúa ba ngôi nhất thể của Giáo hội La Mã, và đồng hồ chính là một mũi tên trúng hai đích: tấm vé vào Trung Hoa và lý lẽ về tình du việt Ki-tô giáo. Những người có thể làm ra cỗ máy này, vốn sở hữu kiến thức địa lý và thiên văn đặc biệt, chẳng phải là những người vượt trội theo nghĩa chung nhất hay sao? Đức tin của họ không đúng hơn, không khôn ngoan hơn chăng?
Các giáo sĩ Dòng Tên sẵn sàng đưa ra lý lẽ này, thổi phồng các quy tắc và nghi thức của Giáo hội để cho phù hợp với hiện thời. (Ví dụ, bài vị Trung Hoa cho việc thờ cúng tổ tiên trở thành dấu hiệu lễ misa Ki-tô giáo.) Người châu Âu cũng đưa ra lý lẽ tương tự. Dưới đây là lời của Gottfried Wilhelm von Leibniz, người đồng khám phá ra tích phân và là triết gia:
Những người này [người Ba Tư, người Trung Hoa] sẽ nói gì khi họ nhìn thấy cỗ máy kỳ diệu mà bạn đã tạo ra, thể hiện trạng thái thực sự của các tầng trời tại bất kỳ thời điểm nào? Tôi tin rằng họ sẽ nhận ra rằng đầu óc của con người có điều gì đó thiêng liêng, và rằng sự thiêng liêng này tự nó nói lên, đặc biệt đối với các Kitô hữu. Bí mật của các tầng trời, sự vĩ đại của Trái đất, và sự đo lường thời gian là điều tôi muốn nói tới.
Đôi khi, lý lẽ này có lý. Các nhà truyền giáo Công giáo đạt được một số thành công, dù họ có gặp khó khăn khi thuyết phục những người “cải đạo” có đầu óc cởi mở thành những người lập trường chuyên nhất (không có đức tin nào khác ngoài đức tin “đích thực") theo truyền thống châu Âu. Nhưng hầu hết người Trung Hoa đều thấy rõ tham vọng này: một cuộc tấn công vào tuyên bố Trung Hoa về tỉnh ưu việt luân lý, một cuộc tấn công vào lòng tự trọng Trung Hoa.
Khi đó, phản ứng hẳn là sự bác bỏ, khinh thường khoa học và công nghệ phương Tây. Dưới đây là lời của Hoàng đế Khang Hy, người cởi mở và ham hiểu biết nhất trong những người theo đuổi các cách thức của phương Tây, người nhiệt tình nhất trong việc truyền bá chúng: *... mặc dù một số phương pháp phương Tây khác với của chúng ta, và thậm chí có thể là một sự cải tiến, nhưng rất ít trong đó là phương pháp mới. Các nguyên tắc toán học đều xuất phát từ Kinh Dịch, và các phương pháp phương Tây đều có nguồn gốc từ Trung Hoa..."6
Huyền thoại ăm lòng đã bắt đầu như vậy. Vì thế, người Trung Hoa sẽ không từ bỏ đồng hồ, muốn có đồng hồ, coi chúng như đó chơi, nhiều chiếc đúng là như vậy; hoặc như biểu tượng về địa vị chỉ để trang trí, không thể tiếp cận với quần chúng. Trung Quốc phong kiến cận đại không coi kiến thức thời gian là một quyền. Thời gian thuộc về nhà cầm quyền, họ xướng danh (tuyên bố) về giờ, và đồng hồ cá nhân là một đặc ân hiếm có. Kết quả là, dù triều đình có lập các xưởng chế tạo đồng hồ và nhờ các thợ đồng hồ Dòng Tên đào tạo một số thợ giỏi địa phương, nhưng thợ Trung Hoa ấy không bao giờ sánh được với thợ đồng hồ phương Tây – vì chưa có những giáo viên giỏi nhất, thiếu cạnh tranh thương mại và ganh đua. Trung Hoa đế quốc không bao giờ có ngành chế tạo đồng hồ như ở châu Âu.
…
23
MINH TRỊ DUY TÂN
Nhật Bản từng có một cuộc cách mạng vào năm 1867-1868. Chế độ Mạc phủ bị lật đổ – thực ra nó tự sụp đổ – và quyền kiểm soát nhà nước trở về với hoàng để ở Kyoto. Vậy là chấm dứt 1/4 thiên niên kỷ cai trị của Tokugawa. Nhưng người Nhật Bản không gọi sự lật đổ này là một cuộc cách mạng, mà là một sự khôi phục, vì họ thích coi nó là sự trở lại bình thường. Ngoài ra, cách mạng là dành cho Trung Quốc. Người Trung Hoa có các triều đại. Nhật Bản chỉ có một hoàng gia, từ lúc khởi đầu.
Đó là vào những năm 1180, Nhật Bản lần đầu tiên bị cai trị, không phải bởi hoàng để mà là một Tướng quân. Với vài lần gián đoạn và đứt quãng, sự cai trị bởi kẻ mạnh nhất này đã trở thành khuôn mẫu bình thường. Chính đây là điểm yếu của triều đại cha truyền con nối: ngay cả với sự hỗ trợ của dòng dõi thánh thần, một triều đại vẫn phải chật vật để duy trì năng lực trường tổn. Gen yếu, hôn nhân cận huyết, bất kỳ điều gì: kẻ mạnh nhất, chủ nhân cung điện, sẽ trỗi dậy nắm quyền và sớm hay muộn cũng lật đổ vị vua hợp pháp.
Đó là câu chuyện đã diễn ra ở Pháp trung cổ, khi nhà Carolus thế chỗ nhà Merowinger và tới lượt mình lại bị nhà Capet tiếm quyền. Tuy nhiên, ở Nhật Bản, giải pháp không phải là phế truất vua và xóa số triều đại, mà là giam hãm. Hoàng đế, hoàng gia, và triều thần bị giam cầm trong các cung điện và đến thờ – dưới thời Mạc phủ Tokugawa, ở Kyoto. Ở đó, Mikado làm thơ, tiến hành các nghi lễ tôn giáo tượng trưng (như trồng cây lùa đầu tiên), để tự giải trí và coi sóc. Đó là phiên bản thần thánh đo kiểu Nhật Bản: sự cô lập mang tính nghi lễ và nỗi bất hạnh thiêng liêng.
Tuy nhiên, sự tồn tại của một vị hoàng đế - một người cai trị chính danh, ở trên người cai trị thực sự – có thể khiến cho kẻ thủ của Mạc phủ Tokugawa mong đợi một sự thay thế danh giá. Trong một xã hội mà lòng trung thành cá nhân là tối thượng, giới tỉnh hoa bất mãn có thể suy tôn quyền lực cao hơn – hoàng đế (Tenno) và dân tộc – trên cả lãnh chúa và tướng quân, mà không bị coi là phản bội. Họ có thể tạo ra một cuộc cách mạng mà không phải là những nhà cách mạng.
Trong khi đó, những biểu tượng về đoàn kết dân tộc đã sẵn có; những lý tưởng và cảm xúc mạnh mẽ về niềm tự hào dân tộc đã được xác định. Điều này giúp giảm bớt nhiều hỗn loạn. Các cuộc cách mạng, vi dụ như nội chiến, có thể tàn phá trật tự và năng lực của đất nước. Minh Trị Duy Tân có những sự chia rẽ và bất đồng, thường là bạo lực.
Mấy năm cuối của triều đại cũ, mấy năm đầu của triều đại mới, bị nhuốm máu của các vụ ám sát, khởi nghĩa nông dân, bạo loạn phản cách mạng. Mặc dù vậy, quá trình chuyển giao ở Nhật Bản còn êm thấm hơn nhiều các cuộc lật đổ chính trị ở Pháp và Nga, vì hai lý do: chế độ mới có nền tảng đạo đức cao; và ngay cả những kẻ bất mãn và bị sỉ nhục đều e sợ trước việc trao vũ khí và cơ hội cho giặc ngoại bang. Các đế quốc nước ngoài đang rình rập tấn công, và những chia rẽ nội bộ sẽ mời gọi sự can thiệp. Hãy xem xét câu chuyện về chủ nghĩa đế quốc ở nơi khác: tranh cãi và mưu mô nội bộ quả thực đã mời gọi các cường quốc châu Âu vào Ấn Độ.
Mạc phủ Tokugawa trên thực tế đã và đang suy yếu từ trước, vào giữa thế kỷ 19. Các quy tắc cũ về địa vị và thứ bậc bị vi phạm công khai. Samurai nghèo túng kết hôn với kẻ kế vị của thương nhân. Nông dân giàu có trở thành kẻ có vị thế ở địa phương, tương đương với giới tiểu quý tộc nông thôn. Sự vâng mệnh tan biến. Các hạn giàu có hơn (ở phía ly Honshu và phía nam Kyushu) thực hiện chính sách đối ngoại riêng, nghĩ rằng đối phó được với những kẻ man di xấc xược thái quả tốt hơn Mạc phủ. Họ thuê các kỹ thuật viên và cố vấn nước ngoài, mua vũ khí từ nước ngoài, xây kho vũ khí và xưởng đóng tàu. Một số trong đó thậm chỉ còn áp dụng quân dịch đối với nông dân, và Mạc phủ bắt đầu làm tương tự. Ở một đất nước nơi nông dân bị cấm mang vũ khí và samurai lên mặt trước thường dân do có thanh kiếm, thì đây là một sự vi phạm trắng trợn về trật tự chung và quy tắc xã hội, khó lường được hậu quả. Nhưng liệu còn cách nào khác để vũ trang cho chiến tranh? Samurai ghét đánh nhau bằng súng, họ coi đó là đáng khinh và không trung thực.
Kể từ đây, từng tướng quân cai trị ngắn ngủi, thiếu hiệu quả, nối đuôi nhau ấp ủ mưu đồ soán ngôi, kết bè đảng, kêu gọi lật đổ đến tận Kyoto. Và hết lần này đến lần khác, áp lực từ ngoại bang khiến chế độ bối rối. Trong một xã hội chưa bao giờ tiếp nhận người lạ, chính sự có mặt của người phương Tây đã gây ra rắc rối. Nhiều lần, những kẻ hống hách Nhật Bản thách thức và tấn công đám ngoại bang trơ trào này, cách tốt nhất để cho họ thấy ai là chủ. Vậy ai là chủ? Chắc chắn không phải Mạc phủ rồi. Khi đối mặt với yêu cầu đòi trừng phạt và bồi thường của phương Tây, giới chức Nhật Bản chỉ có thể trì hoãn, và bằng cách lấp liếm, đã tự đánh mất thể diện trong mắt kẻ ngoại bang và người yêu nước.
Nhưng phải làm gì đây? Các cường quốc bên ngoài biết mình mạnh hơn và sẽ không chùn bước trước bạo lực. Tháng 9/1862, một nhóm chiến binh Satsuma chủ ý tấn công một số thương nhân Anh và một phụ nữ châu Âu; và khi Mạc phủ tỏ ra không có thiện chỉ và không thể buộc Satsuma phải bồi thường, người Anh bèn cử đến một hạm đội vào tháng 8/1863 để bán phá thành Kagoshima. Bài học đã phát huy tác dụng. Đối mặt với thực tế, Satsuma đề nghị thiết lập quan hệ thương mại và ngoại giao trực tiếp với Anh – một sự lăng nhục trực tiếp việc độc quyền ngoại giao bấy lâu nay của Mạc phủ. Tương tự với Choshu. Ngày 25/6/1863, thời hạn mà tòa án hoàng gia ở Kyoto an định để trục xuất lú man di, những người yêu nước Chōshū nôn nông bèn nã đạn vào một tàu Mỹ đi ngang qua co bien Shimonoseki. Mor năm đàm phán dẫn tới bế tắc; và rồi, tháng 9/1864, một hạm đội gồm 17 tàu hải quân Anh, Mỹ, Pháp, và Hà Lan với 305 khẩu pháo tiến vào cảng Shimonoseki và phá hủy tất cả các pháo đài. Chōshū đầu hàng và có vẻ như Satsuma đã yêu cầu được quan hệ trực tiếp và thân thiện với người phương Tây. Và Chōshū cùng Satsuma, cựu thủ truyền thống, giờ đây liên minh lực lượng để chống lại Mạc phủ.
Mạc phủ nhận thấy đã tự đánh mất uy tín tới độ không thể văn hối bởi sự yếu đuối và bất tài của mình. Khi phải ký hiệp ước với Townsend Harris (Mỹ, năm 1854) và sau đó với các cường quốc châu Âu (năm 1858), Mạc phủ đã mất đi danh dự và tỉnh chính danh. Trong khi đó, danh dự của người Nhật Bản không giống như danh dự của phương Tây. Các bên có quy tắc khác nhau. Mỗi bên một kiểu. Ngặt nghèo là thế mạnh của Mạc phủ. Mạc phủ có thể cử cấp dưới đi thương lượng mà sau đó sẽ cần sự phê duyệt ở cấp cao hơn. Mạc phủ có thể ký kết nhưng sau đó lại cãi là hiệp ước vẫn chưa được hoàng đế chấp thuận. Tóm lại, Mạc phủ vừa nói vừa không giữ lời; nói có nhưng hàm ý là không. Không gì có thể làm gay gắt thêm cuộc xung đột hơn thế. Mạc phủ tốt hơn nên đầu hàng trước tình huống bất khả kháng và nói như sau: Người phương Tây các anh có súng. Được rồi, một ngày nào đó chúng tôi cũng sẽ có súng.
(Ở đây, hãy so sánh sự hiểu lầm qua cuộc tấn công của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng: đối với người Mỹ, đó là một ngày “sống trong ô nhục"; đối với người Nhật Bản, đó là một sai lầm đáng tiếc trong việc tính toán thời điểm. Người Mỹ lẽ ra phải nhận được thông báo là người Nhật Bản đang "phá vỡ thỏa thuận” nửa giờ trước khi cuộc tấn công diễn ra; họ chỉ nhận được sau đó. Cho đến nay, người Nhật Bản nghĩ trọng tâm của văn đề này là: việc cảnh báo trước, dù ngắn và mập mờ thế nào (nhưng các nhà ngoại giao được cho là có khả năng hiểu được ý từ sâu xa), sẽ biện minh cho một cuộc tấn công bất ngờ đã chuẩn bị từ lâu. Đối với người Mỹ, một thông báo như vậy sẽ không làm giảm bớt nỗi ô nhục chút nào.)
Những yêu sách của ngoại bang là cốt lõi vấn đề. Sonnó jót, câu khẩu hiệu ngắn gọn: Tồn vương, nhương di (Suy tôn vua, xua đuổi rợ). Dẫn đấu phong trào thay đổi này là các phiên ấp hùng mạnh xa xôi ở phía nam và phía tây, Satsuma và Chōshū, từng là cựu thủ, giờ đây liên minh chống lại Mạc phủ. Họ đã thắng, và họ cũng thua. Đó là một nghịch lý nửa của cuộc cách mạng-khôi phục này. Họ nghĩ rằng sẽ trở lại những ngày xưa cũ. Thay vào đó, họ thấy mình bị cuốn vào ngày mai, trong một làn sóng hiện đại hóa, vì đó là cách duy nhất để đánh bại lũ man di.
Giờ đây các nhà cách mạng thực thụ đã xuất hiện: các rangakusha, kỹ thuật viên, viên chức cấp tiến. Năm 1868 bắt đầu với việc mở thêm nhiều cảng lớn cho giao thương với nước ngoài. Ngày 6/4/1868, tân hoàng để tuyên cáo lời thể “Ngũ cá điều ngự thệ văn,” hứa hẹn thể chế đại nghị và tạo lập một xã hội dân sự dân chủ mới. (Có vẻ như hứa dễ hơn làm, và có lẽ động thái này nhắm tới giới quan sát bên ngoài nhiều hơn là người Nhật Bản.) Điều quan trọng hơn là sự biến đổi của chính quyền trung ương: bãi bỏ các thiết chế phong kiến, phế phiên (han) lập huyện (ken) do những người được chính quyền bổ nhiệm quản lý, sung công hoa lợi thuộc về các võ sĩ quý tộc trước đây. Ở đây, một lần nữa, Satsuma và Chōshū lại nêu gương: tháng 3/1869, các lãnh chúa nơi đây tự nguyện dâng nộp đất đai cho hoàng đế, nghĩa là cho đất nước. Các lãnh chúa khác sau đó cũng làm theo, vì đó là điều đúng đắn và trung thành đáng làm. (Việc này gợi nhớ lại sự tự nguyện dâng nộp thuế phí phong kiến của giới quý tộc Pháp vào cái đêm định mệnh 4/8/1789.) Trong khi đó, nông dân Nhật Bản không còn phải nộp tô cho lãnh chúa nữa; họ đóng thuế cho chính quyền hoàng gia…
đặt mua sách: tại đây



