Bản đọc thử 7 cuộc khủng hoảng định hình toàn cầu hóa
…
GIÁ CẢ ĐỊNH HÌNH TOÀN CẦU HÓA NHƯ THẾ NÀO
Một thế giới kết nối đang tan vỡ. Thiếu lương thực trầm trọng gây ra nạn đói, bệnh truyền nhiễm lây lan trong cộng đồng dân cư thiếu dinh dưỡng, tình trạng bất ổn xã hội bùng phát, hệ thống chính trị bị thách thức và phá hủy. Thế giới tập trung chú ý vào những khu vực địa lý nóng bỏng: một số chiếm chủ đạo trong những hình dung về địa chính trị, miền Đông Địa Trung Hải, eo biển Dardanellia. Tuyến đường giữa Biển Đen và Địa Trung Hải có tầm quan trọng toàn cầu, một con đường hẹp kết nối các khu vực sản xuất hạt ngũ cốc ở trung tâm Á - Âu với những người tiêu dùng đang đói hoặc đang dẫn chết đói. Nghe có vẻ quen thuộc? Kịch bản này đã thường xuyên tái diễn trong mấy thế kỷ qua: cuối những năm 1840, trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và tất nhiên là vào năm 2022. Thập niên 1970, Trung Đông trở thành tâm điểm tranh luận gay gắt toàn cầu về an ninh năng lượng. Những tổn thương do nguồn cung lương thực hoặc năng lượng không đủ, những nỗi lo chúng bị kiểm soát bởi các thế lực thù địch, nham hiếm hay đơn giản là hoàn toàn xa lạ, những thách thức đòi hỏi các chính phủ phải phối hợp hiệu quả các chính sách đối nội và đối ngoại: những điều này tạo thành động lực cơ bản thúc đẩy con người sẵn sàng sáng tạo lại cách thức sử dụng tài nghệ của con người và những kỹ thuật mới để giải quyết vấn đề và kết nối các dân tộc trên khắp thế giới. Những cuộc khủng hoảng thoạt nhìn có vẻ như chỉ mang tính tàn phá, dẫn đến chết chóc và hủy diệt thì lại thể hiện tính đột phá. Cuốn sách này muốn kể câu chuyện chi tiết về quá trình biến chuyển cũng như cách hiểu về những cuộc khủng hoảng đó - hay thậm chí hơn thế nữa, là nó đã thay đổi triệt để tư duy và tái diễn giải câu chuyện toàn cầu hóa như thế nào.
Điều gì thúc đẩy toàn cầu hóa - tính chất liên kết kinh tế và chính trị ngày càng gia tăng của thế giới? Những điểm yếu của toàn cầu hóa là gì? Người ta thường nghĩ hiện tượng toàn cầu hóa là một tiến trình tự hành không thể lay chuyển, một đặc tính dị biệt của nền văn minh đương đại, được thúc đẩy thông qua tiến bộ kỹ thuật trong quá trình Tăng trưởng kinh tế hiện đại, thuật ngữ được phổ biến bởi nhà kinh tế học Simon Kuznets¹. Tuy nhiên, trong thực tế, tính chất liên kết là một bước phát triển không đồng đều và thất thường, hình thành qua những phản ứng tập thể trước tình huống gián đoạn và khủng hoảng. Tại những thời điểm đó, giá cả - hoặc nỗ lực kìm hãm giá cả - tạo ra các tín hiệu chỉ dẫn cho các phản ứng. Dao động liên tục của chúng có thể gây lẫn lộn và mất phương hướng: chúng gợi mở những cách tư duy mới - đôi khi hiệu quả, đôi khi nguy hiểm.
Những gián đoạn thường bắt đầu với sự cố nhỏ và ban đầu có vẻ tầm thường, chẳng hạn như nấm phytophthora infestans xuất hiện ở Ailen giữa thế kỷ XIX, hoặc chủng virus corona được cho là bắt nguồn từ Vũ Hán cuối năm 2019, hoặc thậm chí như vụ ám sát Đại vương công Áo năm 1914. Các nhà kinh tế học Ian Goldin và Mike Mariathasan đã mô tả vấn đề này là “khiếm khuyết cánh bướm” (butterfly defect) của toàn cầu hóa². Cách thức các cuộc khủng hoảng leo thang ra khỏi tầm kiểm soát chính là lời nhắc chúng ta chú ý xem các sự kiện nhỏ cần được hiểu như thế nào. Họ cũng minh họa về những khó khăn của việc phát triển một khung lý thuyết cho những hiểu biết như vậy.
Theo luận điểm của cuốn sách này, những thể chế mới - những phát kiến của thị trường, nhưng cũng bao gồm các quốc gia mạnh hơn và mở rộng tiềm lực của mình - thường nảy sinh từ những phản ứng đối với một kiểu gián đoạn cụ thể: khủng hoảng nguồn cung. Kết quả làm thay đổi cách mọi người nhìn nhận về những tương tác, hoặc về quá trình kinh tế. Khủng hoảng nguồn cung là những thời điểm mà các mặt hàng cơ bản như thực phẩm hoặc nhiên liệu trở nên khan hiếm, giá cả tăng cao và cần có các kênh sản xuất và phân phối mới. Vấn đề chính trị trọng tâm là cách ứng phó với thách thức từ giá cả biến động mạnh. Biến động giá cả dẫn đến những cuộc cách mạng trong chính phủ, cũng như trong tổ chức kinh doanh. Một số hệ thống cứng nhắc đến mức chúng bị phá hủy hoàn toàn bởi nền kinh tế thiếu hụt: nhà kinh tế học lỗi lạc người Hungary János Kornai đã trình bày một cách thuyết phục cách thức mà tình trạng khan hiếm, hành vi tích trữ và những rối loạn vận hành bắt nguồn từ đó, đã gây suy yếu và cuối cùng phá hủy các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung (của các nước xã hội chủ nghĩa)³.
Phản ứng trước khủng hoảng Covid-19 minh họa cho câu hỏi hóc búa cố hữu khi nghĩ về phương hướng hoặc diễn biến tuyến tính của toàn cầu hóa. Ban đầu, có vẻ như đại dịch đã chia cắt thế giới, phá hủy chủ nghĩa đa phương, xé tan chuỗi cung ứng xuyên biên giới phức tạp, và theo đó đảo ngược quá trình toàn cầu hóa. Thoạt đầu, hoạt động thương mại bị gián đoạn khiến giá cả sụt giảm do chuỗi cung ứng ngừng hoạt động; sau đó, khi nhu cầu về hàng hóa thay thế nhu cầu về dịch vụ, tình trạng thiếu hụt xuất hiện và giá cả tăng vọt. Giá cả rơi vào “hiệu ứng roi da"" (bullwhip effect). Các quốc gia xung đột vì tài nguyên khan hiếm, và một số quốc gia, đặc biệt là Nga, đã tìm cách khai thác quyền kiểm soát của họ đối với nguồn cung năng lượng và thực phẩm. Sau đó, chiến tranh gây gián đoạn sản xuất hơn nữa, và đến năm 2022, sản lượng thu hoạch trên thế giới giảm sút, nguồn cung lương thực giảm và tình trạng khan hiếm lớn xuất hiện.
Các nước lớn dường như muốn rút lui. Trung Quốc giảm bớt chú trọng cho tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, thay vào đó hướng tới một mô hình mới với tiêu dùng nội địa trở thành động lực của nền kinh tế. Nước Mỹ tự thu mình vào trong và, ngay cả sau khi nhiệm kỳ tổng thống mới năm 2021 hùng hồn ủng hộ chủ nghĩa đa phương, về căn bản vẫn giữ nguyên các mức thuế quan từ thời Trump. Nước Nga quay sang đối đấu quyết liệt không chỉ với Ukraine mà với toàn bộ trật tự kinh tế và chính trị quốc tế. Trái lại, các nước nhỏ tiếp tục phụ thuộc vào thương mại đối với các mặt hàng thiết yếu: thực phẩm, cũng như các sản phẩm điện tử và kỹ thuật phức tạp, vật tư y tế và dược phẩm.
Tuy nhiên, kinh nghiệm lịch sử cho thấy, các hình thức khủng hoảng toàn cầu hóa còn dẫn đến toàn cầu hóa mạnh mẽ hơn: chúng tạo ra nguồn năng lượng mới cho truyền thông và sáng kiến đổi mới. Do đó, thế giới chính trị ngày nay bao trùm trong một câu hỏi lớn: Covid-19 sẽ tác động như thế nào đến toàn cầu hóa? Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu những năm 2007-2008, ngày càng có nhiều dấu hiệu cho thấy toàn cầu hóa có thể đang đảo ngược, hoặc chuyển sang trạng thái trì trệ hoặc “toàn cầu hóa quay chậm” (slowbalization). Toàn cầu hóa thường được cho là tác động chủ yếu đến tiền lương và giá cả - tạo ra giảm phát liên tục bằng cách bổ sung một lượng lớn lao động vào lực lượng lao động toàn cầu và giảm giá trị lao động của lực lượng lao động sản xuất cổ cổn xanh truyền thống ở các nước giàu. Tiếp theo, chủ nghĩa dân túy ra sức phản đối di cư và thương mại, và các quốc gia cố gắng hạn chế dòng chảy tài chính. Các quốc gia nhập cư lo lắng về những tác động đến tiền lương và thị trường lao động, trong khi các quốc gia di cư than thở về tình trạng chảy máu chất xám khi xã hội và hệ thống thuế của họ sẽ mất đi những cá nhân được đào tạo đắt đỏ. Ở những nền kinh tế tràn lan tình trạng mất việc làm, nhiều người cảm thấy thương mại như một cuộc trao đổi vô ích, trong khi hàng nhập khẩu phá hủy sinh kế. Người ta lên án dòng dịch chuyển tư bản có thể trở nên điên cuồng và gây bất ổn, trong khi giới hoạch định chính sách phản ứng bằng các kế hoạch quản lý chúng. Mười hai năm sau, virus corona, mối đe dọa toàn cầu, khuếch đại thách thức đối với toàn cầu hóa.
Nhiều chính trị gia dân túy hoặc phản đối toàn cầu hóa lập tức kết luận nguyên nhân bắt nguồn từ toàn cầu hóa.
Khi đã nhận thức về mối đe dọa toàn cầu đến từ đại dịch hoặc biến đổi khí hậu, những phản ứng phối hợp toàn cầu sẽ được hình thành. Các cuộc khủng hoảng dường như nhấn mạnh vào việc toàn cầu hóa phải được định hướng hoặc quản lý như thế nào. Những người hoài nghi sẽ nhanh chóng chỉ ra rằng thực tế thường phức tạp hơn. Covid-19 thường nhắc nhở mọi người trước tiên hãy nghĩ đến lợi ích quốc gia: “Nước Mỹ trên hết”. Nhưng các nhà hoạch định chính sách cũng sẽ “ngó nghiêng” và so sánh với những gì các quốc gia khác đang làm, và có lẽ cả những gì họ cần học hỏi. Các quốc gia lập tức lao vào cuộc đua trở thành người đầu tiên có vắc xin để bảo đảm ưu thế khoa học và kỹ thuật trong dài hạn: “chủ nghĩa dân tộc vắcxin” sau đó đã lôi kéo Mỹ, Anh, Nga và Trung Quốc va chạm công khai hơn, nhưng cũng tạo ra những xung đột gay gắt trong Liên minh châu Âu (EU). Động thái chuyển sang chủ nghĩa bảo hộ thương mại và cạnh tranh dâng cao giữa các cường quốc đã tạo tiến để cho quyết tâm sử dụng nguồn cung năng lượng như một công cụ tống tiền, rồi đến cuộc khủng hoảng quân sự Nga - Ukraine từ năm 2022. Những thách thức toàn cầu khác ban đầu cũng kích động chủ nghĩa bảo hộ và chủ nghĩa dân tộc mới. Ngay cả biến đổi khí hậu, tương tự Covid-19, cũng có thể được sử dụng để phát triển ưu thế chiến lược mới: cụ thể là các quốc gia phía bắc, đặc biệt là Nga, cũng như Canada và Na Uy, có thể hưởng lợi từ nhiệt độ ẩm hơn và di chuyển dễ dàng qua Bắc Cực. Hệ quả là, địa chính trị dường như hiện diện khắp nơi sau đại dịch, để phản ứng đối với cuộc chiến ở Ukraine. Tư duy địa chính trị hạn chế khả năng để xuất những phản ứng phối hợp; và hậu quả là toàn cầu hóa dường như đang rút về thế phòng thủ.
Có thực như vậy không? Những phản kháng sẽ tiếp tục lên đến mức nào? Hành động phối hợp, hay sự hợp tác giữa các chính phủ, chắc chắn trở nên khó khăn hơn. Do vậy, họ cần phải dựa vào những động lực khác từ khu vực tư nhân để có thể gắn kết thế giới với nhau. Nhưng liệu những sáng kiến mới như vậy có đủ sức giải quyết những hạn chế lớn về nguồn cung?
Tăng trưởng kinh tế hiện đại
Toàn cầu hóa theo nghĩa kinh tế liên quan đến dòng chảy hàng hóa lao động, tư bản và cả tư tưởng xuyên biên giới quốc gia. Những dòng chảy như vậy chủ yếu phản ứng với nhận thức về tính khan hiếm, thông thường được thể hiện qua tín hiệu giá cả. Thế giới trước thời hiện đại thường xuyên bị gián đoạn bởi tình trạng thiếu nguồn cung trầm trọng, thường xuyên và nguy hiểm nhất là thiếu lương thực, do những thay đổi thất thường của thời tiết và hiện tượng tự nhiên khác, cũng như những tàn phá do xung đột của con người. Tương lai luôn bất định, và những biện pháp để phòng thiếu hụt cần có trợ giúp của trí tuệ hoặc thế lực siêu nhiên: như khi Joseph đáp lại giấc mơ của Pharaoh về 7 con bò cái khỏe mạnh, mập mạp bị 7 con bò nhà gầy gò và xấu xí ăn thịt bằng cách lập luận rằng cần phải xây dựng kho dự trữ trong những năm dồi dào để đương đầu với 7 năm nghịch cảnh sắp tới. Hay khi Moses dan đường cho dân tộc mình từ vùng đất Ai Cập trù phú, khi họ cản dinh dưỡng và nhà tiên tri nói với ho rằng Chúa trên trời sẽ tạo ra cơn mưa bánh mì.
Hiện tượng dịch chuyển dân số đã có từ lâu - có bằng chứng khảo cổ từ thời cổ đại về mối liên hệ giữa phần phía đông và phía tây của lục địa Á - Âu³. Nhưng trong bối cảnh hiện đại từ giữa thế kỷ XIX, nó đã phát triển số lượng di cư lớn hơn nhiều. Hiện tượng này đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong các mô hình được sử dụng để mô tả quá trình Tăng trưởng kinh tế hiện đại (Modern Economic Growth, hay MEG). Đáng chú ý, thuật ngữ “tăng trưởng kinh tế”, chứ chưa nói đến “tăng trưởng kinh tế hiện đại”, hầu như chưa được sử dụng trước những năm 1940, thời điểm nó phần nào được phổ biến như một đối trọng về khoa học xã hội với “quan điểm hệ thống điều khiển học”, vốn được minh họa chính xác nhất qua kỹ thuật của phản ứng dây chuyển hạt nhân trong ngành khoa học tự nhiên. Thế giới khi đó trở thành một “chuỗi các vật thể hoặc hệ thống có thể được mô hình hóa, dự đoán và điều khiển”. Có những vòng lặp phản hồi (feedback loop) và tương tác nhất quán, và chúng vượt qua các ranh giới phân định các quốc gia và đế chế.
Theo luận điểm chủ đạo về tầm nhìn mới của nền kinh tế, vốn và lao động có thể thay thế cho nhau ở dạng mô hình tăng trưởng tiêu chuẩn, trong đó sản lượng được thúc đẩy bởi một hàm số kết hợp tỷ lệ vốn và lao động với một hệ số biểu thị những cải tiến công nghệ. Trong thập niên 1950, Moses Abramovitz và Robert Solow đã xây dựng các mô hình tăng trưởng được chứng thực thông qua công trình của John Kendrick: những nhà phân tích này nhận thấy năng suất gia tăng đáng kể vào thế kỷ XX, và họ cho rằng đó là nhờ cải tiến công nghệ. Những mô hình tăng trưởng này sau đó được mở rộng, đặc biệt là bởi Paul Romer, trong đó để xuất những phương thức tăng trưởng với công nghệ giữ vai trò là yếu tố nội sinh của quá trình tăng trưởng, chứ không phải một "cỗ máy thần thánh" ngoại sinh giải thích bước chuyển biến của nhân loại. Công nghệ được áp dụng và điều chỉnh thông qua "hành động theo chủ ý của những người đáp ứng các khuyến khích của thi trường". Lượng người tương tác đóng vai trò quan trọng cho quá trình này, và do đó lượng vốn nhân lực lớn hơn sẽ tạo ra mức tăng trưởng cao hơn. Nhờ vậy, việc mở rộng lượng vốn đó thông qua thương mại quốc tế tự do lại tiếp tục đẩy mạnh quá trình tăng trưởng.
Thế kỷ XIX, động lực cơ bản được tạo ra bằng cách so sánh mức lợi nhuận trên các yếu tố di động (lao động và vốn), cũng như trên yếu tố bất động (đất đai). Đặc trưng của quá trình toàn cầu hoá nửa sau thế kỷ XIX là con người (lực lượng lao động) di chuyến đến những nơi khan hiếm lao động tương ứng với tiền lương cao và đất đai rẻ, tại các khu thuộc địa: với những dòng di cư lớn nhất đến Mỹ, Canađa, Argentina và Ôxtrâylia. Ngược lại, châu Âu có giá đất đắt đỏ và tiền lương thấp hơn, nhất là bên ngoài nước Anh. Một tầng lớp quý tộc, với ảnh hưởng chính trị to lớn, muốn giữ nguyên hiện trạng này. Dòng di cư mang lại sản lượng cao hơn, nhưng cuối cùng cũng làm tăng tiến lương ở các quốc gia di cư, và chi phí sinh hoạt giảm xuống. Sau đó, di cư xảy ra từ các nước nghèo hơn. Các vùng đất thuộc địa hoặc nhập cư cũng trải qua tình trạng thiếu vốn, với lợi nhuận từ vốn cao hơn, đồng thời lượng vốn lớn cũng chảy vào nhằm mở rộng sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt thông qua đầu tư vào hạ tầng, xây dựng, thiết bị, v.v.. Phần lớn xuất khẩu vốn của Anh đổ vào châu Mỹ, châu Đại Dương và Nga. Kết quả của quá trình toàn cầu hóa này là sự hội tụ, chỉ hạn chế vào thế kỷ XIX vì về cơ bản nó chỉ diễn ra ở những vùng ôn đới trên thế giới phù hợp với kiểu canh tác của châu Âu. Công nghệ dường như bị hạn chế về khả năng ứng dụng, đặc biệt không thể dễ dàng vận chuyển đến những khu vực trên thế giới có mật độ dân số cao, tiền lương thấp và trình độ học vấn khiêm tốn theo tiêu chuẩn phương Tây. Trong cơ cấu này, vốn và lao động thường xuyên luân chuyển cùng nhau như một sự kết hợp thúc đẩy phát triển, nhưng không phải ở mọi nơi trên thế giới.
Do đó, thời kỳ đầu của toàn cầu hóa tương đối khác biệt so với xu hướng hiện đại hơn, trong đó sản phẩm được sản xuất trong các chuỗi cung ứng phức tạp trải dài khắp thế giới, với công nghệ thông tin cho phép chuyển giao dễ dàng. Học vấn cao hơn cũng tạo điều kiện cho công nghệ lan tỏa dễ dàng hơn. Bởi vậy, quá trình toàn cầu hóa cuối thế kỷ XX đa dạng hơn về mặt địa lý, khi dòng vốn thường được di chuyển đến các khu vực có chi phí lao động thấp và có tiềm năng bắt kịp năng suất cao. Nhưng ngay cả ở đây cũng có một nghịch lý thường được ghi nhận: dòng vốn không phải lúc nào cũng chảy vào các nước nghèo, và trong một số trường hợp, các nước giàu (đặc biệt là Mỹ và Anh) lại trở thành những nước nhập khẩu lượng vốn lớn".
Một đặc điểm chính yếu của mô hình tăng trưởng này là giả định về tốc độ thay đổi kỹ thuật chung. Nhưng cũng có thể phản bác rằng khám phá là một quá trình ngẫu nhiên, dẫu cho với số lượng nhà khoa học và nhà thí nghiệm nhiều hơn có thể cho ra số lượng phát kiến nhiều hơn, cũng như trên một phương diện rộng hơn, trong một thời kỳ dài. Khó khăn thực sự nằm ở vấn để ứng dụng công nghệ. Trong thực tế, thường có khoảng cách lớn giữa một phát kiến có tiềm năng đột phá và mức độ lan tỏa hữu ích trên quy mô rộng. Matthew Boulton và James Watt đã chế tạo một động cơ hơi nước tốt hơn vào năm 1776, những tuyến đường sắt đầu tiên ở Anh, tuyến ngắn từ Stockton đi Darlington, chỉ bắt đầu chạy vào năm 1825 để kết nối các mỏ than với Biển Bắc, trong khi con tàu hơi nước đấu tiên, SS Great Western, chạy bằng bánh giống của Isambard Kingdom Brunel, vượt Đại Tây Dương vào năm 1838.
Như vậy, mãi đến giữa thế kỷ XIX, ngành đường sắt mới mở ra những tuyến đường nội địa trên toàn thế giới và tàu hơi nước mới vận chuyển hàng hóa trên quy mô toàn cầu. Orville và Wilbur Wright đã lái một máy bay nặng hơn không khí có động cơ (powered heavier-than-air machine) ở Bắc Carolina vào năm 1903, nhưng thực sự chỉ đến những năm 1960, máy bay phản lực mới mở đường cho vận tải quy mô lớn. Otto Unverdorben phân lập anilin vào năm 1826, nhưng phải đến năm 1854, phương pháp khử do Antoine Béchamp phát triển mới cho phép sản xuất thuốc nhuộm trên quy mô lớn. Ứng dụng trong ngành y khoa hoặc dược phẩm mất nhiều thời gian hơn, với dẫn xuất sulfanilamide được tổng hợp vào năm 1908, có nhiều công dụng kháng khuẩn. Một số khám phá y học khác thậm chí còn cần nhiều thời gian hơn để được nhân rộng trên toàn thế giới: Edward Jenner đã phát triển phương pháp chủng ngừa bệnh đậu mùa vào năm 1796, nhưng phải đến năm 1977, bệnh đậu mùa mới bị xóa số hoàn toàn. Và con trai, các chị (em) gái và vợ của Jenner đều qua đời vì bệnh lao, một căn bệnh mà vắcxin (BCG) lần đầu được sử dụng vào năm 1921.
Các nhóm chính trị mới nổi có khả năng rút ngắn được khoảng thời gian kéo dài của việc phát triển và ứng dụng những phát kiến mới. Ví dụ, một động lực mang tính cách mạng, tàu container, được phát triển vào những năm 1950, nhưng chỉ mang lại tác động quan trọng đối với chi phí và hoạt động vận tải trong những năm 1970 nhờ những thay đổi trong quy định của hãng vận tải và những tương tác của họ với nhà buôn. Những gián đoạn lớn, đặc biệt như chiến tranh, làm hạn chế thương mại nhưng cũng thúc đẩy mạnh mẽ việc tìm kiếm các giải pháp nhanh chóng - chẳng hạn như tổng hợp sản xuất nitrat cho cả thuốc nổ và phân bón cây trồng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và phát triển penicillin trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Do đó, thật sai lầm khi mặc định rằng lan tỏa công nghệ là một quá trình ổn định, có nhịp độ đều đặn. Nó được định hình rõ rệt qua các ưu tiên của chính phủ: lựa chọn dựa trên tầm quan trọng của những sản phẩm nhất định: đường sắt, tàu hơi nước, máy bay, vắcxin, v.v..
Những đặc điểm phát triển kỹ thuật cũng đúng với những phát kiến tài chính. Ý tưởng về phương pháp tiếp cận mới, như công cụ tài chính hoặc hình thức tổ chức mới, thường phát triển chậm trong thời gian dài, nhưng sau đó các tín hiệu giá đột nhiên báo hiệu khả năng thu lợi nhuận phi thường, cần có tư duy mới và sáng kiến đổi mới triệt để.
Vấn đề này có thể được xem xét tổng quát hơn. Toàn cầu hóa và Tăng trưởng kinh tế hiện đại (MEG) hình thành một mối liên hệ, trong đó những hạn chế về trao đổi toàn cầu thường xuyên trì hoãn và cản trở phát triển. Tăng trưởng đi kèm với triển vọng về một tương lai dư dả. Kiệt tác gần cuối đời The Golden Bowl (Chiếc bát vàng) của Henry James gợi lên lịch sử của đế chế và các sản phẩm vật chất của nó, cho thấy Mỹ tiếp nối năng lực triển khai sức mạnh đế quốc của Anh thế kỷ XIX và La Mã cổ đại. Chúng ta được gặp một hoàng tửLa Mã đang mua sắm ở London: "Hoàng tử luôn yêu thích London, từ lần đầu đặt chân đến đây; ông là một trong những người La Mã hiện đại cảm thấy ở sông Thames một hình ảnh thuyết phục hơn về sự thật của nhà nước cổ đại so với mọi dấu ấn lịch sử trên sông Tevere (Italia). Lớn lên cùng truyền thuyết về thành phố mà cả thế giới tôn vinh, ông nhận thấy tầm vóc thực sự của một câu chuyện như vậy ở London ngày nay nhiều hơn ở Rome đương đại"
Vị hoàng tử của James dừng lại và “đứng trước một cửa sổ với những đồ vật to lớn và cục mịch, bằng bạc và vàng, ở những hình dạng được điểm xuyết đá quý, hoặc bằng da thuộc, thép, đóng thau, được áp dụng cho hàng trăm mục đích sử dụng và lạm dụng, được xếp lộn xộn cùng nhau cứ như thể, trong thái độ xấc xược của Đế quốc, chúng là các chiến lợi phẩm của những thắng lợi ở nơi xa xôi". Nhưng tính thô bạo của sự kết nối không chỉ nằm trong việc vận chuyển sản phẩm đi khắp nơi. Con người đang sản xuất và trở nên năng suất hơn trong quá trình toàn cầu hóa. Trong lá thư cuối cùng với tư cách Giám đốc điều hành của Amazon, Jeff Bezos đã nói với các cổ đông: “Nếu bạn muốn thành công trong kinh doanh (thực chất là trong cuộc sống), bạn phải tạo ra nhiều hơn những gì mình tiêu thụ. Mục tiêu của bạn là tạo ra giá trị cho tất cả những người mà bạn tương tác. Mọi hoạt động kinh doanh không tạo ra giá trị cho những người mà nó tiếp xúc, ngay cả khi trông bé ngoài có vẻ thành công, cũng sẽ không tồn tại lâu dài trên thế giới này. Nó sẽ bị đào thải”12. Nếu mọi người đều tạo ra nhiều hơn mức họ tiêu dùng, thế giới sẽ có thặng dư thường xuyên.
Tương tác của con người cũng đánh thức những nhu cầu và mong muốn mà toàn cầu hóa hứa hẹn sẽ đáp ứng, từ đó chấm dứt chu kỳ khan hiếm. Đó là lời hứa mà Hoàng tử Amerigo của Henry James dang suy ngẫm. Nếu mọi người đều muốn thỏa mãn nhu cầu hoặc mong muốn của mình, thế giới sẽ thiếu hụt: và tình trạng thiếu hụt sẽ tiếp tục thúc giục toàn cầu hóa hơn nữa để thỏa mãn những nhu cầu chưa được đáp ứng…



