Bản đọc thử 6 vật liệu định hình văn minh nhân loại
16/10/25
... Tôi đang đứng trên rìa một vách đá dựng đứng và nhìn xuống cái hố sâu nhất tôi từng thấy. Dưới đáy hố là một nhóm người đội mũ bảo hộ, hoặc ít nhất đó là điều người ta nói; họ ở quá xa để có thể thấy rõ bằng mắt thường. Gần chỗ họ làm việc là hàng trăm cân thuốc nổ mạnh đặt trên mặt đất. Tôi được biết số thuốc nổ này đủ để phá hủy cả một khu phố.
Trước mặt tôi là bảng kim loại với hai nút bấm, và có người đàn ông cầm bộ đàm đứng bên cạnh tôi. Chúng tôi đang lắng nghe tiếng đếm ngược từ phòng điều khiển. Tôi được dặn phải nhấn đồng thời cả hai nút khi có tiếng đếm ngược đến không. Dòng điện từ kíp nổ sẽ ngay tức khắc truyền đến đáy hố và một khu vực rộng bằng sân bóng bầu dục trên đất Nevada sẽ bốc hơi ngay trước mắt chúng tôi.
“Anh sẽ cảm nhận được sóng xung kích trước,” người cầm bộ đàm nói. “Sau đó, anh sẽ thấy đất đá bắn lên, rồi tiếp đến là tiếng nổ. Thứ tự này quả thực khá lạ lùng.”
Tôi không đến vùng sa mạc trên cao này để kích nổ bom mà đến vì một bảng tính. Vài tháng trước, tôi nhận thấy điều bất thường khi xem qua các bảng thống kê thương mại của Anh: các dòng lưu chuyển của vàng đang bóp mép số liệu thống kê, từ đó làm sai lệch bức tranh về nền kinh tế của cả đất nước. Thực vậy, trong giai đoạn ngắn, vàng đã vượt qua cả ô tô và dược phẩm để trở thành mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Anh. Điều này thật khó hiểu vì Anh không có ngành công nghiệp khai thác vàng. Làm sao một quốc gia không có trữ lượng vàng đáng kể lại trở thành một trong những nhà sản xuất lớn nhất? Theo như tôi tìm hiểu được, việc hầu hết sản lượng vàng trên thế giới đều đi qua London trên hành trình từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ đã phần nào giải thích được sự khó hiểu này. Để tìm hiểu ngọn nguồn vấn đề, tôi đến nơi kim loại quý này thực sự được khai thác để theo dõi hành trình của nó: từ khâu khai thác lòng đất đến nhà máy tinh luyện và sau đó các thỏi vàng thành phẩm tiếp tục chu du khắp thế giới. Nhưng khi chúng tôi bắt đầu tiến hành phóng sự, tôi chợt nhận ra có câu chuyện thậm chí còn hấp dẫn hơn nữa, câu chuyện nói lên rất nhiều điều về mối quan hệ giữa con người và thế giới.
Phải mất vài tháng để nhà sản xuất của tôi thuyết phục được công ty khai thác được đề cập, Barrick Gold Corporation, cho phép chúng tôi tiếp cận, và mất vài ngày để đi từ London đến đó. Mỏ Cortez không phải là nơi bạn có thể tình cờ thấy. Chúng tôi phải trải qua hai chuyến bay rồi bốn giờ lái xe về phía tây qua những cánh đồng muối ở Utah, tiếp theo là hành trình dài hai tiếng bằng xe ô tô khác cùng với các nhân viên giám sát của Barrick. Chúng tôi đi trên đường cao tốc gần như vắng tanh, chỉ thỉnh thoảng mới có vài chiếc xe tải hạng nặng chạy qua, tiếp đó là con đường dài xuyên qua sa mạc, rồi lại con đường đất ngoằn ngoèo dẫn vào thung lũng khô cằn không người ở. Vùng đất của cao bồi.
Mỏ này nằm trên sườn núi Tenabo, địa điểm linh thiêng của bộ lạc Tây Shoshone. Quy trình khai thác ở đây khá đơn giản và gợi nhắc tới kỹ thuật của những người đào vàng từ thế kỷ 19 nhưng ở quy mô lớn hơn nhiều. Đá được làm nổ bắn ra khỏi lòng đất, nghiền và xay thành bột mịn, cuối cùng được trộn với dung dịch xyanua để tách vàng ra.
Đây chính là thực tế của việc khai thác tài nguyên trong thế kỷ 21: nghiền nát lượng lớn đá và xử lý hóa học những gì còn lại. Thực trạng này vừa gây ấn tượng mạnh vừa khiến người ta lo ngại. Một rủi ro là xyanua và thủy ngân, những chất được sử dụng trong quá trình khai thác, có thể rò rỉ ra hệ sinh thái xung quanh. Dù các công ty khai thác như Barrick khẳng định họ tuân thủ tất cả quy định của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA) nhưng các nhà hoạt động môi trường vẫn cảnh báo ô nhiễm thường bị rò rỉ từ các mỏ. Thực tế là vài năm trước EPA đã phạt Barrick và một công ty khai thác mỏ gần đó 618.000 USD vì không báo cáo việc thải ra các chất độc hại bao gồm xyanua, chì và thủy ngân. Nhưng điều khiến tôi ấn tượng nhất khi quan sát từng giai đoạn của quy trình này là chúng ta ngày nay sẵn sàng đi xa đến mức nào để lấy được một mẩu kim loại lấp lánh nhỏ bé.
Chỉ riêng quy mô của mỏ khai thác này cũng đủ khiến tôi choáng ngợp. Khi nhìn xuống hố, tôi có thể thấy vài chiếc xe tải dưới đó nhưng chỉ khi chúng leo lên đến miệng hố, tôi mới nhận ra chúng cao hơn cả tòa nhà ba tầng; riêng lốp xe đã to bằng cả chiếc xe bus hai tầng. Tôi hỏi những người giám sát rằng cần đào bao nhiêu đất đá để tạo ra một thỏi vàng. Tuy không rõ con số chính xác nhưng họ biết trong một ngày làm việc, những chiếc xe tải đó có thể di chuyển lượng đá nặng tương đương với tòa nhà Empire State. Sau đó tôi tự nhẩm tính rằng để tạo ra được một thỏi vàng tiêu chuẩn (nặng 400 ounce), họ phải đào khoảng 5.000 tấn đất đá. Khối lượng này gần bằng khối lượng của mười chiếc siêu máy bay Airbus A380 chất đầy tải trọng, loại máy bay chở khách lớn nhất thế giới.
Có lẽ bạn đã biết vàng ngày nay được khai thác như vậy. Vì Mẹ Thiên nhiên không tạo ra vàng dưới dạng quặng hay vỉa nguyên khối nên thứ kim loại quý hiếm này được tách ra bằng các phản ứng hóa học sử dụng một trong những hỗn hợp độc hại nhất mà loài người biết đến và nó được khai thác không phải bằng cách đào xới đất mà là bằng cách xẻ cả một ngọn núi. Có lẽ tôi đã ngây thơ, nhưng quả thực trước đây bản thân tôi chưa nhận thức đầy đủ về điều này.
Khi nhìn xuống đáy hố lộ thiên với những chiếc xe tải to bằng cả căn nhà và những người thợ mỏ hối hả như kiến quanh khu vực nổ mìn, tôi bắt đầu thấy hơi nôn nao. Không chỉ vì khung cảnh trước mắt – mà còn vì thứ tôi đang đeo trên ngón tay.
Tôi vừa kết hôn vài tháng trước. Chúng tôi trao nhau những chiếc nhẫn vàng như biểu tượng của tình yêu trước sự chứng kiến của gia đình và bạn bè. Khi tiếng đếm ngược vang lên qua bộ đàm bên cạnh, tôi xoay xoay chiếc nhẫn và suy ngẫm. Có lẽ nó cũng được khai thác từ lòng đất bằng chính những kỹ thuật mà tôi đang chứng kiến. Tại sao tôi không kiểm tra xem nó đến từ đâu? Tôi đã cẩn thận kiểm tra để biết chắc viên kim cương trong nhẫn đính hôn của vợ không phải là kim cương “bẩn”, vậy mà tôi lại không tìm hiểu xem con người và đất đai đã phải hy sinh những gì để có được vàng? Sau này tôi mới biết nếu như trước đây để có đủ vàng cho một chiếc nhẫn cưới bằng các phương pháp truyền thống người ta chỉ cần khai thác khoảng 0,3 tấn quặng thì ngày nay có thể cần từ 4 đến 20 tấn đá. Đứng trước bộ kích nổ, tôi thấy mình giống như một người vừa thưởng thức xong bữa sáng thịnh soạn với xúc xích và trứng rồi bị dẫn đi tham quan lò mổ.
Rồi còn cả ngọn núi nữa. Hố khai thác tôi đang nhìn vào không chỉ nằm gần núi Tenabo mà chính là núi Tenabo. Mỏ khai thác đang được đào sâu vào thân núi theo nghĩa đen. Khi nhìn sang phía bên kia hố, tôi có thể đếm được từng lớp đá đủ màu sắc, từng lớp từng lớp tạo nên cấu trúc bên trong của ngọn núi này. Tôi không tin vào các vị thần nước mà người Tây Shoshone bản địa thờ phụng, nhưng dù vậy, thật khó để không cảm thấy có điều gì đó vừa tàn nhẫn vừa mang tính biểu tượng trong việc bóc đi lớp da của đất và nhìn vào sâu bên trong.
Khi tiếng đếm ngược tiếp tục, tôi quay lại, nhìn về phía nhà sản xuất chương trình với vẻ đầy khẩn thiết. “Cô có muốn vinh dự này không?”
Cô nhìn tôi với ánh mắt không tin nổi rồi bước lên thay chỗ tôi. Bối rối, tôi lùi lại và đứng nhìn.
Tiếng đếm ngược về đến số không. “Khai hỏa cú nổ đầu tiên, khu Cortez Hills,” người đàn ông nói qua bộ đàm và chỉ vào các nút bấm. Cô ấy nhấn cả hai nút. Sau một khoảng dừng tầm một giây, làn sóng áp lực ập đến, không quá dữ dội mà chỉ như luồng không khí thoáng qua. Rồi ngay sau đó mặt đất rung chuyển và tôi nhìn xuống hàng chục mét về phía đáy hố, nơi mặt đất như hóa lỏng. Vụ nổ lan dọc theo đáy mỏ, hất tung đất và khói lên không trung. Chỉ đến lúc đó chúng tôi mới nghe thấy tiếng ầm ầm. Âm thanh vang vọng khắp thung lũng, tưởng chừng kéo dài đến vài phút.
*
Nhà kinh tế John Maynard Keynes từng gọi vàng là “di tích man rợ”. Ý của ông là dù vàng có thể trông lấp lánh trên chiếc vòng cổ hay trong lăng mộ nhưng thực tế nó chẳng mấy hữu dụng.
Rõ ràng vàng có giá trị – nếu không, tại sao chúng ta lại phá hủy cả ngọn núi để lấy vài thỏi vàng? Nhưng hãy nghĩ xem vàng thực sự có tác dụng gì. Nó đóng vai trò phần nào trong điện tử và hóa học, nhưng các lĩnh vực này chỉ chiếm chưa đến 1/10 nhu cầu hiện nay. Thay vào đó, công dụng chính của vàng là trong trang sức, đồ trang trí và là tài sản cho những người lo ngại về khủng hoảng kinh tế. Một phần trong số vàng được khai thác ở Nevada mà tôi chứng kiến có lẽ giờ đang nằm trên ngón tay ai đó. Hoặc cũng có thể nó lại quay trở lại dưới lòng đất dưới dạng một thỏi vàng trong két lưu trữ ngân hàng. Nghe có vẻ báng bổ với các thợ kim hoàn và nhà đầu tư lo xa nhưng thế giới có lẽ sẽ không ngừng vận hành, cũng như nền văn minh sẽ không dừng lại, nếu chúng ta bất ngờ cạn kiệt vàng.
Vậy nên trong những tháng sau khi trở về từ Nevada, tôi cứ mãi trăn trở với vài câu hỏi. Nếu việc khai thác một kim loại mà phần lớn chúng ta có thể sống thiếu đã đòi hỏi công sức như thế này, việc khai thác các vật liệu mà chúng ta thực sự cần sẽ đòi hỏi những gì? Hãy thử nghĩ xem các vật liệu nào là thực sự thiết yếu cho cuộc sống của chúng ta? Những thành phần vật chất nào là cốt lõi mà nếu thiếu chúng, nền văn minh sẽ thực sự ngừng lại, và chúng đến từ đâu?
Tôi linh cảm rằng thép sẽ nằm trong số các vật liệu thiết yếu. Hầu hết các tòa nhà và ô tô – chưa kể đến những cỗ máy được dùng để sản xuất ra mọi thứ khác – đều được làm từ hợp kim sắt, carbon và một vài nguyên tố quan trọng khác này. Chúng ta không thể tạo ra các không gian hiện đại mà không có bê tông. Đồng chắc chắn cũng là một nguyên tố không thể thiếu vì nó là vật liệu quan trọng trong các mạng lưới điện. Và vì chúng ta vẫn dựa vào nhiên liệu hóa thạch để phục vụ cho phần lớn nhu cầu năng lượng nên tôi đoán chúng cũng được coi là vật liệu thiết yếu. Tuy vậy, có lẽ chúng ta cũng nên cân nhắc đến những thứ như lithium bởi chúng là thành phần cốt lõi trong tất cả các loại pin mà chúng ta sẽ cần trong tương lai. Nhưng làm sao để đo lường mức độ phụ thuộc của chúng ta vào các vật liệu này? Và liệu việc khai thác chúng có luôn dẫn đến sự tàn phá giống như những gì tôi đã chứng kiến tại mỏ Cortez hay không?
… Hãy thử nghĩ về một thứ đơn giản như hạt cát. Không có nguyên tố nào trong vỏ Trái đất ngoài oxy có thể phổ biến hơn thành phần chính của cát – silic. Nhưng khi hạ thấp người và nhìn kỹ vào cát, bạn sẽ nhanh chóng nhận ra mình đang chìm trong một vũ trụ đầy phức tạp. Có những loại cát hạt thô, góc cạnh, lý tưởng cho việc xây dựng. Có loại cát biển nằm trên đáy đại dương cho đến khi được nạo vét lên để tạo ra các vùng đất mới. Có những loại cát sa mạc bị gió bào mòn đến mức khi quan sát dưới kính hiển vi, bạn sẽ thấy chúng trông giống như một đống bi nhỏ – bởi các cạnh của cát đã bị mài tròn sau hàng nghìn năm xói mòn. Có những loại cát còn sót lại từ các đại dương nhiệt đới cổ đại với có độ tinh khiết cao đến mức chúng được buôn bán khắp thế giới.
Trộn cát và đá dăm với xi măng rồi thêm nước, bạn sẽ có bê tông, hay chính là vật liệu cơ bản cho các thành phố hiện đại. Khi trộn cát với sỏi và bitum, bạn có nhựa asphalt, chính là chất liệu phổ biến để trải lên mặt đường – khi chúng không được làm từ bê tông thường. Chúng ta sẽ không thể tạo ra các chip máy tính hỗ trợ thế giới hiện đại nếu như không có silic. Thủy tinh tưởng chừng là vật liệu đơn giản nhưng hóa ra lại là một trong những bí ẩn lớn của khoa học vật liệu. Được tạo ra bằng cách nung chảy cát ở nhiệt độ cao với các phụ gia phù hợp, thủy tinh không phải là chất lỏng cũng không phải chất rắn với cấu trúc nguyên tử chưa được khám phá hoàn toàn. Kính chắn gió chỉ là ứng dụng cơ bản của thủy tinh vì khi được kéo thành sợi và kết hợp với nhựa, thủy tinh biến thành sợi thủy tinh và đây là vật liệu tạo nên cánh quạt của tuabin gió. Khi tinh chế thành dây dẫn tinh khiết, thủy tinh biến thành sợi cáp quang được sử dụng để truyền dẫn dữ liệu Internet. Thêm nguyên tố lithium vào, thủy tinh sẽ làm tăng tính bền và đàn hồi còn nếu thêm tiếp nguyên tố bo vào, chúng ta sẽ có thủy tinh bosilicat.
Bạn có thể đã gặp thủy tinh bosilicat dưới thương hiệu mà nhà sản xuất Corning đặt cho nó: Pyrex. Thủy tinh bosilicat là một trong những anh hùng thầm lặng của thời hiện đại với đặc tính chắc chắn, trong suốt và bền với khả năng chịu đựng dải nhiệt độ rộng, từ ngọn lửa của đèn đốt Bunsen đến cái lạnh cắt da của không gian sâu thẳm. Khác với thủy tinh thông thường khi tiếp xúc với các hóa chất mạnh có thể rò rỉ vi hạt vào chất lỏng, thủy tinh bosilicat vẫn giữ được tính trơ hóa học khiến nó trở thành vật liệu hoàn hảo cho ống nghiệm, cốc thí nghiệm và lọ thuốc. Thủy tinh bosilicat được sử dụng làm lọ dùng trong nghiên cứu, lưu trữ và vận chuyển hầu hết mọi loại thuốc hay vaccine từ xưa đến nay – gồm cả vaccine Covid-19.
Song chúng ta thường không chú ý đến những thứ này cho đến khi chúng trở nên khan hiếm. Điều này đã xảy ra với thủy tinh bosilicat, khi chúng đột nhiên nhận được sự quan tâm lớn trong đại dịch Covid-19. Lúc đó, người ta lo ngại việc phân phối vaccine có thể bị chậm trễ không phải vì thiếu dược phẩm mà do thiếu ống thủy tinh để vận chuyển. Nhờ nỗ lực của hàng nghìn công nhân trong chuỗi cung ứng phức tạp kéo dài từ các mỏ, nhà máy tinh luyện đến các xưởng sản xuất, mối lo ngại đã được ngăn chặn. Công ty Corning thậm chí còn sản xuất một loại thủy tinh hoàn toàn mới, không sử dụng nguyên tố bo mà dùng nhôm, canxi và magie, để đáp ứng nhu cầu về ống đựng.
Không phải lĩnh vực nào cũng may mắn như vậy. Trong và sau đại dịch, có nhiều mặt hàng khan hiếm như khẩu trang, tăm bông, hóa chất xét nghiệm, xi măng, thép, gỗ, giấy vệ sinh, khí công nghiệp, hóa chất, thịt, mù tạt, trứng và sữa. Đặc biệt, sự thiếu hụt chip silic – tức thiếu vật liệu bán dẫn – đã buộc các nhà sản xuất ô tô trên toàn thế giới phải tạm ngừng sản xuất và đóng cửa nhà máy. Các công ty sản xuất máy tính và smartphone không thể hoàn thành đơn đặt hàng. Dù đã ra mắt cả năm, thế hệ máy chơi game mới vẫn khan hiếm. Phải mất gần hai năm, tình trạng này mới dần chấm dứt.
Điều trớ trêu về những vụ khủng hoảng chuỗi cung ứng thế này nằm ở chỗ dường như các chính phủ và nhà hoạch định chính sách trên thế giới lúc nào cũng ngớ người ra. Họ ngạc nhiên khi thiếu hụt vật liệu bán dẫn, không ngờ rằng ô tô cần nhiều chip như vậy, và việc thiếu hụt xe mới lại đẩy giá xe cũ lên cao kỷ lục.
Cuối năm 2021, chính phủ Anh cũng không khỏi bất ngờ khi phát hiện họ đang thiếu khí CO2, và cũng nhận ra rằng nếu không có CO2, ngành công nghiệp thực phẩm không thể sản xuất đồ uống có ga cũng như bảo quản thực phẩm hay làm choáng lợn, gà trước khi giết mổ. Nguyên nhân của việc này xuất phát từ việc hai nhà máy sản xuất phân bón ở Cheshire và Teesside đột ngột đóng cửa. Hóa ra, phần lớn nguồn cung CO2 của Anh đến từ hai nhà máy này, mà sản phẩm chính của chúng là một thứ hoàn toàn khác: amoniac. Amoniac được sản xuất từ khí đốt tự nhiên nên khi giá khí đốt tự nhiên tăng cao đã dẫn đến sự thiếu hụt đột ngột của một chất tưởng chừng không liên quan.
Nhưng liệu tất cả những điều này có thực sự đáng ngạc nhiên? Để tìm câu trả lời, hãy xem xét bài luận nổi tiếng của một nhà kinh tế người Mỹ, Leonard Read, viết vào năm 1958 mang tên “Tôi, cây bút chì”. Bài luận mở đầu bằng câu: “Tôi là một cây bút chì gỗ, loại bút chì thông thường mà mọi đứa trẻ và người lớn biết đọc biết viết đều quen thuộc. Nhưng, như Read viết, hay chính xác hơn là cây bút chì kể lại, “chẳng ai trên thế giới này biết tôi được làm ra như thế nào”.2
Gỗ của bút chì được lấy từ những cây tuyết tùng mọc ở miền tây nước Mỹ, bị đốn bằng cưa thép được sản xuất trong lò luyện thép và hoàn thiện trong xưởng gia công. Sau đó gỗ được cắt thành các thanh, sấy khô, nhuộm màu và sấy khô lần nữa, các tấm gỗ được tạo rãnh và dán lại với nhau. Lõi bút chì làm từ than chì khai thác ở Sri Lanka, được tinh chế và trộn với đất sét từ Mississippi cùng với các hóa chất làm từ mỡ động vật và axit sulfuric. Gỗ và lõi bút chì được phủ một lớp sơn làm từ dầu thầu dầu, chiết xuất từ hạt thầu dầu, nhựa được dùng để ghi nhãn, và đuôi bút được bọc bằng đồng thau làm từ đồng và kẽm khai thác ở tít bên kia địa cầu. Cục tẩy được làm từ dầu hạt cải từ Indonesia, với vô số hóa chất khác như lưu huỳnh clorua và cadmium sulphua.
Tất cả những công đoạn đó chỉ để làm ra một vật đơn giản như cây bút chì. Tuy nhiên, từ những người sản xuất từng nguyên liệu, những người vận chuyển các bộ phận, đến những người làm việc tại các nhà máy điện cung cấp năng lượng cho quá trình này, “hàng triệu người,” cây bút chì của Read viết, “đã góp phần vào việc tạo ra tôi, mà ai trong số họ cũng chỉ biết cùng lắm là vài người khác.”
Có vài bài học đơn giản ở đây. Thứ nhất, chúng ta biết rất ít về cách các sản phẩm thông dụng được làm ra. Thứ hai, không một cá nhân nào có thể tự mình thực hiện hay điều hành toàn bộ các quá trình sản xuất phức tạp này. Được viết vào thời kỳ đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh, vì nhiều lý do hiển nhiên nên “Tôi, cây bút chì” tập trung nhiều vào bài học thứ hai. Bài luận của Read được nhà kinh tế theo trường phái thị trường tự do Milton Friedman ca ngợi như một minh chứng cho thấy tại sao các đối thủ của ông sai lầm khi cố điều hành nền kinh tế thông qua các ủy ban kế hoạch trung ương.
Tuy nhiên, khi suy nghĩ về sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng thế kỷ 21, tôi nhận ra rằng chúng ta cũng nên nhớ đến bài học đầu tiên. Chắc chắn nếu dành thêm thời gian để hiểu rõ cách các sản phẩm thiết yếu được tạo ra, chúng ta sẽ không quá ngạc nhiên khi chúng trở nên khan hiếm. Qua bài luận của Read, hàng triệu sinh viên kinh tế giờ đây đã hiểu rõ về chuỗi cung ứng của một chiếc bút chì, nhưng còn smartphone, vaccine hay pin thì sao? Còn chuỗi cung ứng của khí CO2 hay thủy tinh bosilicat thì thế nào?
Những mạng lưới nhân lực và tri thức đã biến nguyên liệu thô thành các sản phẩm hoàn thiện phục vụ chúng ta cũng quan trọng không kém gì chính các vật liệu, và đây cũng là một điểm nổi bật của cuốn sách này. Trong những trang tiếp theo, bạn sẽ thấy một sự tôn vinh về cách con người dù đa số không hề quen biết nhau nhưng vẫn có thể hợp tác để biến những chất liệu tưởng chừng vô tri thành những điều kỳ diệu. Và tôi nhận ra rằng ít có chuỗi cung ứng nào kỳ diệu như chuỗi cung ứng sản xuất chip silic.
Từ lâu trước khi xảy ra tình trạng thiếu hụt chip bán dẫn, tôi đã bắt đầu hành trình kể câu chuyện về một hạt silic, từ thời điểm được khai thác ở mỏ đá cho đến khi trở thành một phần của chiếc smartphone tại nhà máy sản xuất và lắp ráp chip bán dẫn. Cũng giống như câu chuyện về chiếc bút chì của Read, tôi nhanh chóng nhận ra rằng không một ai, kể cả những người tham gia vào chuỗi cung ứng, có thể hoàn toàn giải thích cho tôi ngay cả những quy trình đơn giản nhất diễn ra như thế nào. Những người làm việc tại nhà máy sản xuất chip hiểu rất nhiều về công nghệ quang khắc và mài hóa học, nhưng lại biết rất ít về cách tạo ra các tấm wafer silic (tấm bán dẫn silic) siêu tinh khiết mà họ đang làm việc cùng. Không ai ở các mỏ khai thác đá thạch anh từ lòng đất (hóa ra, chip bắt đầu không phải từ các hạt cát mà từ những hòn đá to bằng nắm tay) có thể hiểu được nhiều về số phận cuối cùng của những hòn đá này.
Tuy nhiên, điều ấn tượng nhất chính là độ dài và những diễn biến phức tạp của hành trình này. Từ lúc bị nổ tung khỏi lòng đất tại mỏ đá cho đến khi nằm trong chiếc smartphone, một hạt silic đã thực hiện nhiều chuyến chu du vòng quanh thế giới. Nó bị nung nóng đến hơn 1.000oC rồi được làm nguội, không chỉ một hoặc hai mà là tới ba lần. Nó được biến đổi từ một khối vô định hình thành một trong những cấu trúc tinh thể tinh khiết nhất trong vũ trụ. Nó được chiếu bằng tia laser sử dụng loại ánh sáng mà bạn không thể nhìn thấy và cũng không thể tồn tại khi tiếp xúc với không khí. Quá trình biến silic thành một con chip nhỏ bé chính là hành trình kỳ diệu nhất mà tôi từng khám phá...
đặt mua sách: tại đây



